Wednesday, December 20, 2017

         Đôi mắt người tình xưa
                          (Truyện Liêu trai)
          Bà Thanh biết mình không còn sống bao lâu nữa vì bệnh ung thư gan đã tới giai đoạn cuối cùng. Bà nằm thoi thóp trên giường chờ ngày ra đi. Các con bà đã sửa soạn đầy đủ cho đám tang của bà. Theo lời trối trăng, họ chỉ mua một áo quan mỏng manh, rè tiền vì xác bà sẽ hoả thiêu.
            Bỗng, một đêm, trong một giấc mơ, bà gặp lại người tình đầu tiên trong đời, ông Ước. Đã từ lâu, bà nghe tin ông ở một tiểu bang khác và bị mù từ nhiều năm nay. Thế là bà có ý định gặp ông trước khi vĩnh viễn ra khỏi cõi đời..Bà ngỏ ý này cho mấy người con đang săn sóc bà. Họ ngạc nhiên, nhìn bà đăm đăm. Họ không sợ tốn tiền khi đưa bà đi xa, nhưng họ ngại sức khỏe bà không thể chịu đựng nổi chuyến bay xa. Nếu chẳng may bà làm sao trên máy bay thì rất phiền và rắc rối.
            Như đoán được ý nghĩ của các con, bà cho họ biết bà sẽ không chết trên máy bay, nhất định sẽ chỉ chết trên giường này.Các con bà, sau một hồi thảo luận riêng, miễn cưỡng chiều ý bà. Hai người con lớn sẽ đi với bà. Để không gặp trở ngại gì trên máy bay, họ mua bốn chỗ, dù chỉ có ba người.
            Nhờ vậy, chuyến đi an toàn, không gặp trục trặc gì. Thế là bà được gặp người tình năm xưa. Ông Ước bị mù đã nhiều năm. Ông cho biết ông bị mù trong thời kháng chiến chống Pháp. Trong một trận đánh, ông bị thương, mất cả hai con ngươi. Hai mắt sâu trũng. Vì thế, ông không hề có vợ con. Nhưng ông có mấy người cháu rất thương ông nên lo cho ông. Người thì gọi ông bằng bác, kẻ gọi bằng chú. Khi họ vượt biên, họ cũng cố đưa ông đi theo vì không nỡ bỏ ông lại một mình. Sẽ không ai săn sóc ông.. Nhờ vậy, ông mới được sống ở Mỹ. Vì mù lòa, ông được chính phủ Mỹ trợ giúp đầy đủ, nên không làm phiền các cháu nhiều.
            Khi được gặp người tình năm xưa, bà Thanh nắm lấy tay ông, nghẹn ngào hỏi :
            “Anh còn nhớ em không ? Thanh đây.”
            Ông Ước ngơ ngác hỏi :
            “Thanh nào ? Tôi đâu có quen ai là Thanh !”
            Bà xiết mạnh tay ông hơn, rồi đáp :
            “Lâu quá rồi nên anh quên đấy. Em là Thanh, hồi ở Hà Nội, em ở phố Hàng Đào, nhà bán tơ lụa. Anh ở phố Hàng Bạc, nên thường gặp nhau, rồi mình…yêu nhau. Đáng lẽ mình đã thành vợ chồng, nhưng cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ vào cuối năm 1946. Thế là anh và em phải xa nhau. Anh đi theo kháng chiến, còn em theo gia đình tản cư ra hậu phương. Từ đó, anh em mình không bao giờ gặp nhau nữa. Nay, em nghe tin anh định cư ở đây, nên cố gắng tới thăm anh lần cuối cùng…Nói thật với anh, em cũng chẳng còn sống bao lâu nữa đâu…Bệnh ung thư gan của em đã tới giai đoạn cuối cùng…Chết ở tuổi này cũng không còn tiếc đời nữa…”
            Ông Ước chỉ ờ ờ cho qua vì cũng không nhớ chắc bà Thanh là ai. Lâu quá rồi, mà hồi trẻ, trước khi bị mù, ông cũng đã có nhiều cuộc tình với các nữ cán bộ trong vùng kháng chiến. Ông vẫn coi những mối tình đó chỉ là chuyện trai gái  bồng bột, nông nổi.
            Bà Thanh xiết chặt tay ông một lần nữa rồi xin từ biệt. Bà có vẻ hài long khi đã được gặp người tình đầu tiên trong đời.
            Rồi ngay hôm sau, bà thở hơi cuối cùng. Các con cháu bà không tỏ vẻ tiếc thương lắm, vì họ đã chờ đợi giây phút này từ nhiều ngày qua. Việc tẩn liệm nhanh chóng. Mọi chuyện bình thường, nhưng khi sửa soạn đóng nắp áo quan, họ ngạc nhiên vì thấy đôi mắt bà khác thường. Chúng lõm sâu, dường như không có con ngươi. Một người đánh bạo vành mắt bà ra thì thấy lõm sâu, đúng là không có con ngươi. Mấy người xúm lại, vành cả hai mắt bà xem nhiều lần mà vẫn không thấy con ngươi đâu. Cuối cùng, họ cũng đành phải đậy nắp áo quan, để đưa vào lò thiêu.
                                                       X     X
                                                            X
            Trong khi đó, ở tiểu bang khác, một buổi sáng sớm, ông Ước ngủ dậy, bỗng thấy có điều lạ ở đôi mắt mình.  Chúng không tối đen như mọi khi mà hình như có ánh sang. Ông thử mở mắt ra, nhưng phải vội nhắm ngay lại vì bị chói ánh sang. Ông không hiểu tại sao lại có chuyện kỳ lạ như vậy. Ông đưa hai tay lên che mắt, rồi từ từ hé nhìn ra. Lần này, ông nhìn thấy trần nhà  và ngọn đèn trần. Ông vừa sợ vừa mùng. Vì không biết làm sao có thể giải thích được chuyện bất ngồ, lạ lùng này, Ông hốt hoảng gọi các cháu. Khi chúng nó vào phòng, ông không nhận ra đứa nào hết, nhưng khi một đứa lên tiếng nói thì ông biết tên người đó ngay. Tai ông đã quen với tiếng nói của các cháu, nhưng mắt thì chưa. Ông nói với chúng :
            “Chú bỗng nhiên lại nhìn thấy mọi vật. Thật khó hiểu quá ! Như vậy là mắt chú đã trở lại bình thường. Con ngươi ở đâu bỗng mọc ra ? “
            Các cháu ông ngơ ngác nhìn ông, rồi nhìn lẫn nhau.                       
Một người đánh bạo bước lại cạnh ông, nhẹ nhàng vành mắt ông ra xem. Đúng là mắt ông đã có con ngươi. Anh ta xem đi xem lại nhiều lần, không còn nghi ngờ gì nữa. Một người cháu khác dung đèn pin xoi mắt ông. Cuối cùng, một người đề nghị đưa ông đi gặp bác sĩ nhãn khoa.
Thế là tất cả mấy người cháu dìu ông ra xe hơi. Từ nhà đến phòng mạch bác sĩ khá xa. Ngồi trong xe, ông nhìn ra ngoài với vẻ mặt rất thích thú. Đây là lần đầu tiên ông được ngắm phong cảnh đất Mỹ. Đẹp lạ lung !
Vì không có hẹn trước, mọi người phải ngồi đợi rất lâu ở phòng mạch bác sĩ. Rồi, cuối cùng ông Ước cũng được bác sĩ gọi vào phòng. Sau khi nhỏ thuốc, chiếu điện, chụp hình, bác sĩ xác nhận đôi mắt của ông Ước hoàn toàn bình thường, mà còn có thể nói là rất tốt. Mọi người rất vui mừng, dù vẩn còn ngạc nhiên.
Về phần ông Ước, không còn có gì vui hơn được nữa. Ông vẫn thắc mắc không hiểu sao đôi mắt mình lại có có con ngươi để lại nhìn thấy ánh sang sau mấy chục năm trời mù lòa. Phải ch8ng ông là người hiền lành nên được Trời thương ?
                                                                                       TQK

                                                                                  Dec. 16 2017

Sunday, December 10, 2017


Báo oán

                     Tạ Quang Khôi

LTS  Đây là truyện mới nhất của nhà văn kiêm nhà giáo Tạ Quang Khôi. Ông viết truyện này để ăn mừng sinh nhật thứ 90.            

Cương là một thanh niên rất đẹp trai nên được nhiều gái mê, kể cả gái có chồng, trong đó có Tuyết Phương. Trọng, chồng Tuyết Phương, là người hiền lành, chân thật. Chàng rất yêu vợ và không bao giờ nghi vợ ngoại tình. Nhưng một hôm, chàng nhận được một lá thư của người vô danh vì địa chỉ người người gửi bỏ trống. Chàng liền mở ra coi, chỉ thấy một tờ giấy có hình một cặp sừng. Chàng rất ngạc nhiên vì không hiểu ý nghĩa của cặp sừng và cũng không rõ đó là sưng bò hay sừng trâu. Suy nghĩ một lát, chàng cho là người gừi đã lầm địa chỉ, chàng ném thư vào sọt rác. Nhưng ba hôm sau, chàng lại nhận được thư người vô danh. Lần này, cũng lại một cặp sừng, nhưng lớn hơn cặp trước. Chàng lại ném vào sọt rác. Rồi, ba hôm nữa, chàng lại nhận được thư người lạ. Chàng định không mở ra đọc, nhưng tò mò nên vẫn cứ mở. Lần này, ngoài cặp sừng, chàng còn thấy chữ NGU màu đỏ và đậm nét. Thoạt tiên, bị mắng là ngu, chàng tức lắm, nhưng sau khi nghĩ kỹ lại, chàng chợt hiểu ra ý nghĩa của cặp sừng. Phải chăng chàng bị mọc sừng, nghĩa là vợ chàng ngoại tình ?  

Sau một đêm trằn trọc suy nghĩ, chàng quyết định bí mật theo dõi vợ khi nàng ra khỏi nhà. Rồi sau nhiều ngày bí mật theo dõi và chụp hình nàng đi chơi với Cương, Trọng quyết định thuê luật sư để xin ly dị vợ. Chàng hiền lành nên không muốn làm lớn chuyện ồn ào. Ngay cả khi hai người chia tay theo quyết định của toà án, chàng cũng sẵn sang cho vợ mang theo rất nhiều thứ quý giá, dù không phải của nàng. Chàng thầm nghĩ không phải sống chung với người đàn bà hư hỏng là vui rồi.

Về phần Tuyết Phương, sau khi chia tay với chồng, nàng tìm gặp ngay Cương, đề nghị hai người chình thức kết hôn.  Cương trố mắt hỏi :

“Em nói chi kỳ vậy ? Mình chính thức thành vợ chồng ?”

Tuyết Phương nói bằng giọng nũng nịu :

“Bây giờ em được tự do rồi, mình thành vợ chồng, luôn luôn ở bên nhau. Bộ anh không vui sao ?”

Cương giữ im lặng một lúc khá lâu, rồi từ từ nói :

“Không, mình không thể thành vợ chồng được. Em lớn hơn anh những năm tuổi, đáng tuổi chị anh, làm sao thành vợ chồng được.”

Tuyết Phương trố mắt nhìn chàng, rồi chợt hiểu mình chỉ là kẻ bị lợi dụng, Cương không thật lòng yêu nàng. Một mối đau tràn ngập long nàng. Thì ra nàng đã bị cái vẻ đẹp trai và tuổi trẻ của hắn quyến rũ nên mới bị lợi dụng. Bây giờ biết tính sao đây ? Một mối tuyệt vọng dâng cao trong hồn nàng. Vì sự tuyệt vọng đó, nàng uất ức, căm thù Cương. Hắn đã làm cho cuộc đời nàng lỡ dở, bỏ người chồng hiền lành, nhân đức. Mối tuyệt vọng của nàng biến thành mối oán thù. Nàng thầm nghĩ không thể tha thứ hắn được, phải trả thù. Nhưng trả thù thế nào thì nàng chưa nghĩ ra. Đâm chem ? Nàng không đủ can đảm và sức lực.

Sau nhiều ngày suy nghĩ, Tuyết Phương nghi Cương đã có người yêu khác. Con người đẹp trai ấy không thể không có nhiều tình nhân. Vậy, nàng phải tìm cách theo dõi để khám phá ra người Cương thật sự yêu thương. Điều này không có gì khó khăn, vì Cương và ngừời yêu thường gặp nhau, lúc ở ngay nhà chàng, lúc thì hai người đi ăn tiệm. Người yêu của Cương rất trẻ, nhưng sắc đẹp chỉ vào loại trung bình. Điếu đáng đáng để ý nhất là cái bụng hơi lớn của cô ta. Phải chăng cô đang có bầu và tác giả của cái thai chính là Cương ? Nếu đúng như vậy, làm sao Cương có thể bỏ rơi người tình được !

Một ý nghĩ thoáng hiện trong óc Tuyết Phương, phải phá cái thai đó đi ! Đó cũng là một cách trả thù. Nhưng làm thế nào để có thể phá thai của người ta được ? Ngay thai của mình phá đã khó, nói chi thai người khác.

Mối buồn và oán hận mỗi ngày một lớn, làm nàng mất ăn mất ngủ thường xuyên. Người nàng gầy xọp đi rất nhanh. Rồi, một hôm, nàng đang lái xe thì cảm thấy trong người rất mệt mỏi, chân tay run rẩy. Đến một khúc quanh, nàng lạc tay lái, leo lên lề, đụng mạnh vào một gốc cây, ngực va vào tay lái khiến nàng hộc máu ra miệng, rồi chết luôn.

                                 X X

                                  X

Người yêu của Cương, bây giờ chính thức là vợ chàng, sau mười tháng có thai đã sinh một con gái. Hai vợ chồng Cương mừng lắm, Đứa bé trông rất xinh, trắng trẻo, bụ bẫm. Rồi, năm tháng qua mau, đứa bé lớn nhanh như thổi. Nhưng càng lớn càng giống Tuyết Phuông. Cương rất ngạc nhiên. Vợ chàng đâu có phải là chị em với Tuyết Phương, chính nàng cũng không biết cô ta là ai. Chàng suy nghĩ nhiều ngày, nhiều đêm mà không sao giải thích được sự giống nhau này.

Một điều đặc biệt khác nữa là càng lớn đứa bé càng nhìn chàng bằng đôi mắt thù ghét, trợn trừng đến nỗi chàng không dám đến gần nó nữa. Tất nhiên không dám bế ẵm nó. Chàng khơng biết hỏi ai để có thể giải thích chuyện kỳ lạ này. Vợ chàng vừa ngạc nhiên vừa tức giận vì chồng không còn thương con nữa.

Còn điều đặc biệt khác là đứa bé đã lên 5 mà không nói được dù vẫn hiểu người khác nói gì. Nàng quyết định đưa con đi bác sĩ. Nhưng khi gặp nác sĩ, nó vẫn có thể trả lời những câu hỏi của bác sĩ. Như vậy, nó không bị câm. Nàng hoàn toàn không hiểu tình trạng con ra sao. Không câm mà không chịu nói, thật kỳ lạ.

Rồi, bỗng một buổi sáng, nàng không thấy chồng dậy uống cà phê như mọi khi. Hai người ngủ riêng phòng từ khi chồng nàng không dám lại gần con. Nàng thấy chồng chum kín chăn, bèn lật chăn ra và nắm lấy bắp tay chàng để đánh thức chàng. Nàng giật mình vì người chàng đã lạnh toát. Nàng hoảng sợ, chạy vội ra khỏi phòng và dung điện thoại cầm tay để gọi 911. Chỉ 15 phút sau, một xe cứu thương tới đưa xác Cương vào bệnh viện. Bác sĩ khám nghiệm cho biết chàng bị bóp cổ chết hồi đêm và ông còn cho biết…hai bàn tay bóp cổ là hai bàn tay nhỏ của con nít. Mọi người rất ngạc nhiên về chuyện này. Không lẽ đứa bé, chính con chàng đã bóp cổ cha ? Không thể có đứa bé nào khác từ bên ngoài lén vào giết người. Làm sao giải thích được chuyện này !

Bác sỉ gọi riêng vợ Cương vào phòng mạch để hỏi về đứa con gái chung của hai người. Nàng cho biết đã lâu Cương không lại gần con, mà chàng cũng không cho biết lý do tại sao.

Suy nghĩ một lát, bác sĩ đề nghị vợ Cương cho ông gặp riêng đứa bé. Nhưng lúc nàng trở ra phòng đợi tìm con thì không thấy nó đâu. Nàng hoảng sợ chạy khắp nơi để tìm con, nhưng hoàn toàn vô ích. Mặt nàng tái nhợt, chân tay run lẩy bẩy. Có người thấy tội nghiệp nàng, vội gọi cảnh sát tới giúp nàng tìm con. Nhưng rồi, cảnh sát tới cũng không tìm thấy đứa bé. Cảnh sát phải đưa nàng về nha bằng chính xe nàng.

Về đến nhà, viên cảnh sát phải dìu nàng vào thẳng phòng ngủ để nàng có thể lên giường nằm nghỉ.

Khi mở cửa phòng ngủ, hai người đều ngạc nhiên  thấy đứa bé đang nằm trên giường. Viên cảnh sát định bế nó để lấy chỗ cho mẹ nó cùng nằm. Nhưng ông giật mình vì nó đã lạnh toát. Nó chỉ còn là một cái xác không hồn.

                                                      Tạ Quang Khôi

                                                          2 12 2017

Wednesday, April 27, 2016

                    Hồn ma nhập
                         Tạ Quang Khôi

          Mấy bác phu nhà đòn bàn tính sau khi đưa nốt hai áo quan cuối cùng vào lò thiêu sẽ về nhà tắm gội rồi ra tiệm nhậu nhẹt với nhau. Đó là thói quen thường xuyên của họ. Đã có nhiều áo quan được đưa vào lò, chỉ còn hai cái nữa là xong cho ngày hôm nay. Họ có ba người làm việc chung từ nhiều năm nay.
          Thấy công việc sắp hoàn tất, họ rất vui. Thật ra, hôm nay cũng không có nhiều áo quan phải đưa vào lò thiêu. Vì thế, họ sẽ được về sớm hơn mọi ngày.
          Nhưng khi họ sửa soạn đưa áo quan áp chót vào lò, bỗng nghe có tiếng lạch cạch từ cái áo quan cuối cùng. Họ ngạc nhiên nhìn về phía có tiếng động. Cạch ! Cạch ! Cạch !  Rõ ràng tiếng gõ như gõ cửa.  Họ ngơ ngác nhìn nhau như muốn hỏi nhau có nghe thấy gì không ? Đây là lần đầu tiên trong đời họ, áo quan người chết có tiếng gõ. Một người lên tiếng :
- Cái gì vậy ?
Người thứ hai rụt rè :
- Người chết...sống lại ?
Người thứ ba tỏ vẻ nghi ngờ :
- Làm gì có chuyện kỳ cục vậy !
Nhưng họ chưa biết nên làm gì, lại có tiếng gõ lần nữa. Lần này
mạnh hơn lần trước. Một người đề nghị :
- Mời ông chủ đến vì chúng ta không có quyền làm gì hết.
.    Ông chủ mà họ vừa nói tới là ông chủ nhà đòn. Một người liền dùng điện thoại di động để liên lạc với ông chủ của họ.
     Trong thời gian chờ đợi, họ vẫn nghe thấy nhiều tiếng gõ liên tục, mỗi lúc một mạnh hơn. Dù đã quen với áo quan người chết, họ cũng hơi rờn rợn. Họ chưa bao giờ gặp ma, kể cả ban đêm, thế mà bây giờ giữa ban ngày ban mặt họ cũng thấy hơi sợ.
     Khi ông chủ nhà đòn tới, chính ông cũng không biết nên làm gì. Ông quyết định báo tin cho chủ nhà đám. Ông mở cặp lấy cuốn sổ ghi địa chỉ và số điện thoại của chủ nhà đám. Ông cho họ biết tin người chết đã sống lại và hối thúc tới ngay. Chỉ trong vòng không đầy 10 phút, xe hơi của chủ nhà đám hấp tấp lao tới. Ông đồng ý mở nắp quan tài ngay.
     Không đầy năm phút sau, người chết ngồi bật dậy khi nửa trên của tấm ván thiên được mở ra. Mọi người đều giật mình lùi lại mấy bước. Xác chết thở khò khè, yếu ớt nói một câu gì đó mà không ai nghe rõ. Nhưng khi xác chết làm hiệu đòi uống nước thì một người trong nhà đám vội mở một lon Cocacola đưa cho xác chết. Nhưng xác chết không thể đưa tay đón nhận vì tay run rẩy quá. Xác chết ngửa cổ chờ đợi. Người nhà đám từ từ đổ nước coca vào miệng xác chết. Uống xong, xác chết thều thào nói một câu mà mọi người đoán là cảm ơn.
     Khi đã tỉnh táo hơn, da xác chết đỡ tái, rồi dần dần trở lại gần bình thường. Người cầm lon coca đứng gần áo quan nhất lên tiếng hỏi :
- Khỏe lại rồi hả ?
Xác chết ngơ ngác tỏ vẻ không hiểu. Người cầm lon coca nhắc
lại câu hỏi. Bỗng xác chết xổ ra một tràng dài những tiếng lạ kỳ, không ai hiểu gì hết. Mọi người cho rằng xác chết không nói tiếng Việt mà hình như tiếng ngoại quốc. Trong đám đứng quanh xác chết có nhiều người thông thạo tiếng Anh và tiếng Pháp mà cũng không hiểu gì. Như vậy, chắc chắn không phải hai thứ tiếng này. Họ ngơ ngác nhìn nhau, riêng mấy người trong nhà đám không biết phải làm gì bây giờ. Rõ ràng người thân của họ không sống lại. Xác chết của người thân đã có hồn ma khác nhập vào. Dù thế nào cũng không thể đưa áo quan vào lò thiêu được. Trong khi họ lúng túng chưa biết tính sao, xác chết vẫn ngồi trơ trơ trong áo quan.
     Mấy người phu nhà đòn sốt ruột vì họ muốn sớm giải quyết cho xong để có thể về nhà như dự tính. Chưa bao giờ họ gặp hoàn cảnh đặc biệt như lúc này.
     Thật ra, không ai có thể giải quyết dứt khoát việc này được. Những người nhà đám thì biết chắc không phải thân nhân của họ hồi sinh. Một linh hồn nào đó đã nhập vào xác chết. Chù nhà đòn  không thể cho phu của họ đưa áo quan vào lò thiêu, dù sao cũng phải coi là người chết đã sống lại.
     Cuối cùng, ông chủ nhà đám, vì lòng nhân đạo, đồng ý cho người mới sống lại ra khỏi quan tài để phu nhà đòn vẫn đưa áo quan không vào lò thiêu như đã định.
      Khi mấy người phu đòn đỡ người mới sống lại ra khỏi áo quan, người này còn rất yếu, run lẩy bẩy, không đứng vững. Họ tạm trải một cái chiếu xuống đất cho xác chết nằm nghỉ. Xác chết nhìn quanh với một vẻ mặt lạ lùng. Hắn lại nói một câu gì mà không ai hiểu.
     Suy nghĩ một lúc, ông chủ nhà đám bỗng có ý định mời một bác sĩ đến khám nghiệm. Dù sao người chết cũng là con trai lớn của ông, mới qua đời vì ung thư bao tử. Ông sẵn sàng chịu mọi phí tổn.                 
     Mọi người không phải đợi lâu, một bác sĩ tới trong vòng nửa giờ. Ông chủ nhà đám vắn tắt kể lại mọi biến cố cho bác sĩ nghe. Bác sĩ có vẻ ngạc nhiên lắm. Ông mở đồ nghề khám bệnh cho người mới sống lại : nghe tim, bắt mạch soi đèn pin vào miệng, vào tai, nắn tay, nắn chân. Cuối cùng bác sĩ đề nghị đưa người mới sống lại vào bệnh viện để có đủ phương tiện khám bệnh hơn. Ông chủ nhà đám đồng ý ngay. Bác sĩ liền gọi điện thoại xin một xe cứu thương.
                                                X X
                                                  X
     Thế rồi, sau một ngày khám nghiệm của nhiều bác sĩ, kết quả được công bố như sau : thiếu máu, tim yếu, bộ óc vẫn còn tốt...Điều làm mọi người ngạc nhiên là bao tử hoàn toàn tốt, không có dấu vết ung thư. Các bác sĩ hy vọng tiếp thêm máu thì tim sẽ trở lại bình thường.
     Chỉ còn một điều khó giải quyết là chưa thể nói chuyện với bệnh nhân được vì ngôn ngữ bất đồng. Bây giờ phải biết hồn mới nhập xác là người nước nào. Một bác sĩ có sáng kiến là đem một cuốn Địa lý có đầy đủ bản đồ các nước trên thế giới rồi hỏi hồn là người nước nào. Mọi người công nhận sáng kiến hay. Rồi, kết quả hồn nhận mình là người Ba Lan.
     Ông chủ nhà đám liền đăng trên mục Nhắn Tin của nhiều báo cho biết cần thông ngôn tiếng Ba Lan. Có ba người trả lời, hai nam một nữ. ông chọn người đàn ông lớn tuổi nhất dù đòi tiền công cao hơn hai người kia. Sau khi kể qua loa câu chuyện hồn nhập, ông đưa người thông ngôn vào nhà thương.
     Hồn cho biết hồn là một người Ba Lan trẻ mới chết cách đây vài bữa trong một tai nạn xe cộ. Thân nhân của hồn đã chôn cất hồn trong một nghĩa trang gần thủ đô Ba Lan. Nhưng hồn ấm ức, chưa chịu về cõi âm, cứ bay lảng vảng khắp nơi, rồi tình cờ gặp xác của con ông chủ, vội nhập vào xác đó để được sống lại. Nay hồn xin được làm con ông chủ, sẵn sàng học tiếng Việt.
     Lời đề nghị này làm ông chủ rất phân vân. Sau nhiều ngày suy nghĩ, ông đề nghị kẻ viết lại chuyện này hỏi ý kiến mọi người.
Có nên nhận hồn ma làm con không ? Xin cả làng góp ý.

                                                               Tạ Quang Khôi

                                                               (5 tháng 4 2016)      

Monday, August 31, 2015

MƯA GIÓ MIỀN NAM              Tạ Quang Khôi                       
LTS.Truyện Mưa Gió Miền Nam có thể coi như truyện đầu tay của Tạ Quang Khôi, viết năm 1956, đăng báo Văn Nghệ Tiền Phong ở Saigon từ số 1.Tthật ra, truyện đầu tiên của TQK là truyện “Vực
Thẳm”, đăng báo Tự Do năm 1955. Nhưng vì Vực Thẳm không được in thành sách nên không tìm lại được.


https://app.box.com/s/02ovn5f09w51nwdkyxtc7na3s5jqoy4v

Wednesday, September 3, 2014

   NHỮNG NGƯỜI BẠN VĂN NGHỆ
                                           Tạ Quang Khôi

T
ôi may mắn được tham dự sinh họat văn nghệ, báo chí miền Nam Việt Nam suốt hai mươi năm. Vì thế, tôi biết khá nhiều chuyện về các văn nghệ sĩ lẫn ký giả nổi tiếng trước năm 1975.
Hồi học Chu Văn An, Hà Nội, tôi chỉ làm thơ, chưa viết văn, thỉnh thoảng mới viết
một truyện ngắn đăng báo. Vì không bao giờ nhận được nhuận bút nên tôi không tha thiết với việc viết văn. Thơ của tôi ở mức trung bình nên cũng được nhiều báo đăng. Nhờ vậy, tôi bắt đầu quen biết một số các văn nghệ sĩ Hà Nội.
            Tôi quen Hoàng Song Liêm trong một kỳ thi Tú tài 1. Liêm tuy còn đang học trung học nhưng đã là chủ bút tờ tuần san Chiếu Bóng và giữ mục giải đáp tâm tình với bút hiệu Người Xứ Mộng.
Vì cả hai chúng tôi cùng làm thơ nên có ý định xuất bản chung một cuốn thơ, tựa là “Nắng Mới”. Thơ đã chọn lựa xong, tiền in cũng đã để dành đủ. Một hôm, để ăn mừng tác phẩm văn chương sắp ra lò, chúng tôi vào một nhà hàng ở gần bờ hồ Hoàn Kiếm, tên là Tùng Linh. Nhà hàng này có một món rất đặc biệt là pâté chaud. Vì món ăn ngon quá, ngày nào chúng tôi cũng tới để ăn mừng cuốn sách sắp ra lò. Vì chúng tôi tin rằng cuốn thơ “Nắng Mới” sẽ gây nên một xúc động lớn trong giới văn học thủ đô Hà Nội, chắc chắn những người yêu văn nghệ phải hâm mộ chúng tôi triệt để, nên chúng tôi càng phải “ăn mừng” nhiều hơn. Rồi đến một hôm, chúng tôi kiểm điểm lại số tiền in thì thấy hao hụt trầm trọng, không còn đủ để đưa nhà in nữa. Thế là ý định in thơ của chúng tôi nguội lạnh, trong khi đó pâté chaud vẫn nóng hổi. Thì ra chỉ vì cái tật tham ăn của chúng tôi mà hội đồng giám khảo giải văn học Nobel lỡ dịp tuyên dương một tác phẩm để đời.
Sau đó, nhờ Liêm tôi quen anh của ông là Hoàng Phụng Tỵ. Ông Tỵ lúc đó đã có thơ xuất bản, cuốn “Hương Thơ Mùa Lọan” được nhiều người ái mộ. Ông là một sĩ quan, bị thương ở mặt vì cánh quạt trục thăng nên mặt có sẹo. Vì thế, ông thường đến thăm tôi vào buổi tối và không chịu vào nhà có đèn sáng, chỉ thích đứng cửa nói chuyện văn chương, thơ phú.
            Nguyễn Quốc Trinh cũng là một nhà thơ mà tôi thân. Nhưng chúng tôi chỉ liên lạc với nhau một thời gian ngắn, Trinh bỗng bỏ Hà Nội để trốn ra vùng kháng chiến vì muốn được gần ông chú là thi sĩ Nguyễn Ðình Thi.
            Vào thời đó, có hai người cũng làm thơ đều tên Ngư mà tôi quen là Ðặng Bá Ngư và Lê Nguyên Ngư. Ðặng Bá Ngư có bút hiệu là Song Nhất Nữ. Lê Nguyên Ngư, khi di cư vào Nam, đổi thành Hồ Nam và Vương Tân (khi làm thơ). Song Nhất Nữ khá nổi tiếng vì thơ của ông ngày nào cũng xuất hiện trên nhật báo Tia Sáng. Rồi bỗng một hôm, thơ Song Nhất Nữ biến mất. Hỏi ra mới biết ông xuống Hải Phòng lo làm ăn nuôi gia đình. Bút hiệu của ông làm nhiều người thắc mắc. Ông là phái nam sao lại ký là Song Nhất Nữ ? Một hôm, tôi hỏi ông về bút hiệu này, ông giải thích :”Song Nhất là hai, Nữ là con gái. Vậy Song Nhất Nữ là Cô Hai.” Phải chăng ông yêu một người con gái tên Hai hay người con gái thứ hai trong gia đình nào đó ?
Khi di cư vào Nam năm 1954, vì sinh kế, tôi phải viết truyện đăng báo hàng ngày. Có một thời, tôi phải viết ba truyện dài cho ba nhật báo. Chỉ khi bắt đầu học đại học sư phạm tôi mới bỏ bớt hai báo để có thì giờ đèn sách.
Văn, thi sĩ miền Nam rất nhiều, tôi không có hân hạnh quen biết hết. Tôi làm hai
nghề một lúc, vừa dạy học vừa viết báo nên không có nhiều thì giờ giao du, chỉ được gặp một số nhỏ.
            Sau khi nhật báo Tự Do đóng cửa, tôi được ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hòang mời viết cho nhât báo Ngôn Luận và tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong. Ðồng thời tôi trúng tuyển kỳ thi biên tập viên tin tức của đài phát thanh Saigon. Khi viết cho Văn Nghệ Tiền Phong và Ngôn Luận, tôi được gặp Hoàng Hải Thủy và Thanh Thương Hoàng. Sự liên lạc của chúng tôi đến nay vẫn mật thiết dù đã hơn nửa thế kỷ.
            Thanh Thương Hoàng ở xa, San José (CA), nên chúng tôi chỉ có thể liên lạc với nhau qua email. Dù ít gặp nhau, nhưng mỗi lần nghĩ đến ông, tôi lại không thể quên cái công của ông với làng báo Saigon khi ông lập ra Làng Báo Chí gần Thủ Đức. Làng báo chí nằm bên tay trái xa lộ Biên Hòa nếu đi từ Saigon. Có nhiều ký giả, nhà văn đã được cấp nhà, chấm dứt tình trạng đi ở thuê. Sau này, gặp ông ở hải ngoại, ông cho biết đa số người được cấp nhà trong làng báo chí không chịu trả tiền nên khi miền Nam “đứt phim” ông còn nợ Nha Kiến Thiết 350 triệu.
Làm đài phát thanh Saigon, tôi quen thân với ban Tao Ðàn của thi sĩ Ðinh Hùng. Ngoài ông trưởng ban đã thân từ những ngày làm báo Tự Do, tôi bắt đầu quen biết các nhân viên trong ban, như : Huy Quang, Thanh Nam, Thái Thủy và Tô Kiều Ngân,
Ngay từ những ngày còn ở Hà Nội, tôi đã đọc truyện của Huy Quang, Vào thời đó, các nhà văn trẻ mới nổi, có Nguyễn Thiệu Giang, Huy Quang, Thanh Nam, Nguyễn Minh Lang…Truyện của Huy Quang đã được nhà xuất bản Văn Hồng Thịnh in và phát hành..Thanh Nam cũng đã có truyện xuất bản. Tôi đọc “Lỡ Mộ Đời Hoa” của ông rất say mê. Đó là một truyện tình lãng mạn, rất bay bướm. Nguyễn Thiệu Giang viết nhiều truyện ngắn hấp dẫn.vì cách hành văn rất lạ và bay bướm. Nguyễn Minh Lang có tác phẩm “Hoàng Tử Của Lòng Em” để tặng riêng một nữ ca sĩ xinh đẹp đang nổi tiếng ở Hà Nội. Ngay trang đầu của cuốn sách có hình một trái tim màu đỏ tươi và một dấu hỏi cũng màu đỏ. Có người giải thích trái tim và dấu chấm hỏi là tên nữ ca sĩ mà tác giả đang yêu : Tâm Vấn.
Vào Nam, khi làm cho đài phát thanh Saigon, tôi được biết trụ sở của đài phát thanh Saigon cũng là trụ sở tạm của đài phát thanh quân đội. Văn phòng của đài phát thanh quân đội chỉ là một phòng nhỏ ngay chân cầu thang. Một hôm, tôi thấy một trung úy đang ngồi viết bài trong phòng đó. Tình cờ nhà văn Thanh Nam cũng đang lên lầu với tôi nên tôi hỏi nhỏ ông về viên trung úy đang hí hoáy viết. Thanh Nam cho biết đó là Huy Quang. Thì ra chính là nhà văn mà tôi hâm mộ từ ngày còn ở Hà Nội. Bỗng Thanh Nam nắm tay tôi kéo xuống thang, dắt tôi đến trước mặt Huy Quang để giới thiệu. Tình bạn giữa Huy Quang và tôi thân thiết nhanh chóng vì hợp tính hợp tình.
Khi Huy Quang là trung tá, được thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ bổ nhiệm làm tổng giám đốc Nha Vô Tuyến Truyền Thanh Việt Nam. Ông gửi văn thư sang bộ Giáo dục xin tôi về làm phó tổng giám đốc. Bộ Giáo Dục liền chuyển tôi sang bộ Thông Tin. Vì không hiểu thủ tục hành chánh, tôi lên bộ Giáo dục để hỏi ông giám đốc nha Nhân viên sao không chuyển thẳng về đài phát thanh lại cho tôi sang bộ Thông Tin. Ông giám đốc giải thích rằng bộ nọ liên lạc với bộ kia, không thể liên lạc trực tiếp với tổng nha được. Tôi băn khoăn hỏi thêm về thủ tục hành chánh, ông giám đốc cho biết khi tôi đã trình diện bộ Thông Tin, tôi sẽ là người của bộ này. Nếu ông Vũ Đức Vinh không còn làm tổng giám đốc Nha Vô Tuyến Truyền Thanh nữa, tôi sẽ phải về bộ Thông Tin vì tôi là người của bộ này. Lúc đó rất phiền cho tôi vì tôi là công chức ngạch A, trong khi đó đa số nhân viên bộ Thông Tin thuộc ngạch B hoặc phù động. Nếu tôi không có vây cánh, người ta có thể bổ nhiệm tôi vào một chức vụ nào đó xa Saigon, tôi không có quyền từ chối. Nghe giải thích như vậy, tôi hoảng sợ, không dám trình diện bộ Thông Tin nữa. Tôi đành phụ long tốt của ông Vinh.
Sau này, khi đã ở Mỹ, cuối năm 2004, tôi bay sang Seattle (WA) thăm ông Vũ Đức Vinh và một số bạn định cư ở đó. Ông Vinh lại trách tôi đã không chịu làm phó cho ông vì ông tin rằng nếu ông trở về quân đội, tôi sẽ lên thay. Tôi không tin như vậy vì tôi không có vây cánh ở bộ Thông Tin. Trong dịp thăm viếng này, tôi thấy ông Vinh mập quá nên khuyên ông phải cố gắng ăn “diet” và tập thể dục cho xuống cân. Ông chỉ cười tỏ vẻ không đồng ý. Vào cuối năm 2005, tôi nghe tin ông phải làm “by-pass” và trong khi cuộc giải phẫu đang tiến hành thì ông bị nhồi máu cơ tim nên đã qua đời.
Người thứ hai trong ban Tao Đàn tôi thân và quý mến là Thanh Nam. Ông tên thật là Trần Đại Việt, người Thái Bình. Ông hiền lành, dễ tính. Ông nghiện thuốc lá và bia.Tật của ông là hay rung đùi. Vào những năm cuối thập niên 1950, bọn tôi thường đến bar Hòa Bình, gần chợ Bến Thành, để nghe hát. Thanh Nam yêu một nữ ca sĩ và cũng được nàng yêu lại. Ông hỏi cưới người yêu, nhưng không được toại nguyện. Sau đó, ông kết duyên với nữ văn sĩ Túy Hồng, người Huế. Túy Hồng cũng là một nhà giáo, dạy ở trường trung học Mạc Đĩnh Chi, Saigon. Trước biến cố 30 tháng 4 năm 1975, gia đình Thanh Nam được Mỹ bốc ra khỏi Việt Nam vì ông làm cho đài phát thanh Tự Do của Mỹ, mà ông Vũ Quang Ninh làm giám đốc.
Năm 1982, gia đình tôi vượt biên, rồi được đinh cư ở Mỹ. Vào giữa năm 1984, khi tôi ở Sacramento (CA) thì liên lạc được với Thanh Nam ở Seattle (WA). Lúc đó ông đã bị ung thư cổ và đã giải phẫu cắt chỗ bị ung thư nên không còn nói được nữa. Khi biết địa chỉ tôi, ông gửi tặng tôi cuốn thơ “Đất Khách” với lời khuyến khích :”Cầm bút lại đi nhé !”
“Đất Khách” có hai mươi mốt (21) bài, bài nào cũng hay và cảm động khi nhắc tới quê hương xa xôi nửa vòng trái đất. Riêng tôi, tôi thích nhất bài “Khúc Ngâm Trên Đất Tạm Dung”.
                                       Uống say mai sớm bạn lên đường
                                       Thân lại nương nhờ chốn viễn phương
                                       Trăm hận nghìn đau nào sánh nổi
                                       Tấm lòng lưu lạc nhớ quê hương ?
                                       Ta như going bão tan rồi hợp
                                       Trôi dạt còn hơn song đại dương
                                       “Lận đận bên trời chung một lứa…”
                                       Say càng chua xót, tỉnh càng thương
                                       Tháng năm xa mãi thời hoa mộng
                                       Râu tóc thêm gần với tuyết sương.
                                       …        
Đầu tháng 2 năm 1985, Huy Quang Vũ Đức Vinh gọi dây nói báo tin Thanh Nam đã ra đi.
Người bạn Tao Đàn khác mà tôi thân là thi sĩ Thái Thủy, tác giả bài thơ “Thư gửi Mẹ” được nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ nhạc :
                                       Mẹ ơi, thôi đừng khóc nữa
                                       Cho long già nặng sầu thương.
                                       Con đi say tình viễn xứ,
                                       Đâu có quên tình cố hương…
Tôi không hiểu Thái Thủy làm đài phát thanh từ bao giờ mà rất thông thạo về ngành vô tuyến truyền thanh. Chuyện gì ông cũng biết, mà biết rất tường tận. Có người gọi đùa ông là Kissinger.
Thái Thủy lấy vợ rất muộn. Người vợ đầu tiên của Thái Thủy là con gái nhỏ của nhà văn Mặc Thu Lưu Đức Sinh. Tôi không rõ ai đã làm mai hay làm sao hai người quen biết nhau  để có thể trở thanh vợ chồng. Trong đám cưới, ngâm sĩ Hoàng Thư của ban Tao Đàn lên  máy vi âm nói đùa là từ nay Thái Thủy phải gọi ông là bác vì ông cùng tuổi và là bạn của nhà văn Mặc Thu.
Khi cộng sản chiếm miền Nam, Thái Thủy phải đi tù cải tạo, bà vợ lấy chồng khác. Ít lâu sau, ông được đi Mỹ theo diện HO cùng với bà vợ mới. Khi ông bị ung thư phổi vào giai đoạn cuối cùng đã vội vã bay về Việt Nam để thăm mẹ. Cụ là một sĩ quan trong ngành Quân Nhu của Việt cộng. Ông qua đời vào tháng 4 năm 2011.
Tô Kiều Ngân cũng là một nhân viên ban Tao Đàn, nhưng tôi không thân nên không biết gì nhiều về ông. Tôi thường gặp ông trong quán ăn trước cửa đài phát thanh Saigon. Ông nói giọng Huế, mặc quân phục, đeo lon trung úy. Khi nói chuyện, ông hay cười với bạn bè. Năm 2012 ông qua dời ở Huế, thọ 86 tuổi.
Về nhà văn Văn Quang, tôi cũng có chút kỷ niệm. Khi tôi đang làm đài phát thanh Saigon, ông cưới bà vợ đầu tiên. Tiệc cưới tổ chức ở nhà hang Động Phát, Chợ Cũ. Khi tôi vào nhà hang, một nhân viên đài phát thanh Saigon kéo tôi ngồi cùng bàn ngay. Nhưng tôi chỉ mới ngồi được vài phút, Văn Quang từ trên lầu xuống, ghé tai tôi nói nhỏ : ”Tao ở trên lầu, sao mày lại ngồi đây ?” Lúc đó tôi mới biết một nhân viên đài phát thanh cũng cưới vợ, nhưng không mời tôi. Người nhân viên quen thuộc tưởng tôi cũng đến dự đám cưới của bạn ấy nên mới muốn tôi ngồi cạnh. Thế là tôi vội vàng theo Văn Quang lên lầu. Sở dĩ tôi nói Văn Quang cưới bà “vợ đầu tiên” là vì ông đã ở chung với bảy bà khác nhau. Nếu tôi không lầm, Văn Quang chỉ làm hôn thú với bà thứ nhất. Sau khi ly dị với bà này, ông không làm hôn thú với ai khác nữa.
Tôi gặp Hoàng Hải Thủy và bắt đầu quen ông năm 1956. Khi báo Tự Do đóng cửa, tôi được ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng mời viết báo Ngôn Luận, rồi Văn Nghệ Tiền Phong với truyện dài “Mưa Gió Miền Nam”. Hoàng Hải Thủy viết cho Ngôn Luận phóng sự “Vũ Nữ Saigon”. Tôi không còn nhớ tôi viết cho Ngôn Luận những truyện gì, chỉ nhớ truyện cuối cùng là “Thầm Lạng”, một truyện tình cảm rất ướt át. Sau đó, tôi tạm ngưng viết truyện dài cho các báo để học sư phạm.
Về chuyện đi Mỹ của ông bà Hoàng Hải Thủy, tôi được biết ông bà sang Mỹ theo diện tỵ nạn chính trị. Khi biết tin ông bà đã tới Mỹ và tạm trú tại nhà bà Khúc Minh Thơ, cũng ở Virginia, tôi liền tới thăm và đưa ông đi chơi một vòng quanh thủ đô Washington DC. Chỉ ít lâu sau ông được chuyển vào nhà già khi building Elmwood vừa xây xong năm 1996. Từ đó, các bài viết của ông được ghi “Viết ở Rừng Phong”. Tám năm sau, khi con tôi, vì công việc làm, phải chuyển xuống Houston (TX), tôi không đi theo vì không muốn xa vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn có khí hậu ôn hòa, tôi xin vào nhà già. Tình cờ tôi được làm hang xóm của ông Hoàng Hải Thủy trong building Rừng Phong. 
Năm 1982, tôi cùng các con vượt biên và được định cư ở Mỹ. Nơi tôi đến đầu tiên là San José. Chúng tôi mới chân ướt chân ráo tạm trú tại nhà vợ chồng cô em nhà tôi thì ông Lê Thiệp đã biết tin, vội đến mời tôi đi ăn. Sau bữa ăn, ông đưa tôi về tòa soạn báo Kháng Chiến của Mặt trận Hoàng Cơ Minh và đề nghị tôi ở luôn trong tòa báo để lo bài vở cho tờ báo. Tôi cho biết tôi có ba con nhỏ đi cùng, phải cho tôi có thời gian thu xếp chuyện gia đình đã. Ngay buổi tối hôm đó, tôi gọi dây nói cho một ông bạn ở Nam Cali. Ông trước kia là đàn em thân tín của bác sĩ Trần Kim Tuyến  Ông liền khuyên nên chuyển đi nơi khác vì Mặt Trận là một trò bịp để moi tiền đồng bào tỵ nạn. Thế là tôi vội đưa các con lên Sacramento.
Tôi mới chỉ ở Sacramento được vài tháng, ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng bay từ Bắc Virginia sang thu tiền báo của các đại lý. Ông đề nghị tôi chuyển sang Virginia để làm báo Văn Nghệ Tiền Phong. Lúc đó gia đình tôi đang hưởng trợ cấp AFDC của chính phủ. Tính tôi không thích nhờ vả, ăn welfare là một chuyện bất đắc dĩ. Thế là tôi nghe lời ông lếch thếch đưa các con sang Virginia bằng xe buýt Greyhound. Ông Hồ Anh không chịu trả tiền phí tổn di chuyển cho tôi, viện cớ tôi có ba con nhỏ đi theo. Làm việc cho ông Hồ Anh là một bất đắc dĩ. Lương đã thấp lại không có bảo hiểm sức khỏe. Không những thế, khi tôi mới làm được ba tháng rưỡi, ông nghe ông Lê Triết đuổi tôi  với lý do tôi nằm vùng cho Mặt Trận Hoàng Cơ Minh. Một nách ba con nhỏ nơi xứ lạ quê người lại bị thất nghiệp thì không còn gì đau khổ cho bằng. Tôi đành xin ăn welfare trở lại. Đồng thời, tôi ráo riết tìm việc làm cho sở Mỹ. Nhưng chưa đầy một tháng, ông Hồ Anh đến tận nhà tôi xin lỗi vì đã đuổi oan tôi, nay ông đã biết tôi không có liên lạc gì với Mặt Trận. Vào dịp này, ông Hồ Anh xuất bản tờ “Tiểu Thuyết Nguyệt San”, cho tôi làm chủ bút. Nhưng tờ Tiểu Thuyết Nguyệt San mới ra được 11 số thì tôi được một sở Mỹ gọi đi làm. Tôi liền báo cho ông Hồ Anh biết và nghỉ việc ngay tức khắc. Ông giao tờ Tiểu Thuyết Nguyệt San cho thi sĩ Hoàng Anh Tuấn phụ trách. Nhưng không hiểu sao ông Hoàng Anh Tuấn bỏ ngang, nhường cho ông Hà Bỉnh Trung thay thế. Sau đó, tôi không liên lạc gì với báo chí Việt Nam nữa. Lương sở Mỹ gấp ba lương Văn Nghệ Tiền Phong, lại có bảo hiểm sức khỏe cho cả gia đình.
Tôi làm cho sở Mỹ đến cuối năm 1998 thì xin về hưu. Lúc đó tôi đã gần 70, sợ không còn đủ sức khỏe để làm những chuyện cần thiết cho riêng mình trước khi ra khỏi cõi đời này. Chính nhờ thời gian rảnh rỗi này, tôi đã viết được nhiểu truyện ngắn, truyện dài, khảo cứu văn học và hồi ký. Truyện cuối cùng la truyện “Bể Dâu” tôi viết xong vào tháng 8 năm 2013.
Tôi không nhớ tôi quen nhà văn Doãn Quốc Sỹ trong trường hợp nào, tôi chỉ nhớ hồi còn ở Saigon thỉnh thoảng tôi đến thăm ông. Nhà ông ở trong một ngõ hẻm đường Thành Thái. Mỗi lần đến chơi, tôi đều được bà Sỹ đàn dương cầm cho nghe. Bà là con gái nhà thơ trào phúng Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, trong Tự Lực Văn Đoàn.
Ông Doãn Quốc Sỹ cũng là một nhà giáo. Ông đã có bằng cao học giáo dục ở Mỹ. Ông rất hòa nhã và lúc nào cũng vui vẻ với bạn hữu. Ông hơn tôi 6 tuổi nên tôi coi ông là bậc đàn anh cả về văn nghệ lẫn giáo dục. Nhưng ông lại vẫn coi tôi ngang hang như bạn.
Khi cộng sản chiếm miền Nam, ông phải đi tù cải tạo, rồi sau này gia đình ông được sang Mỹ theo diện HO. Ở Mỹ, tôi chỉ được gặp ông có một lần khi hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại họp đại hội ở Virginia. Sau đó, tôi không bao giờ được gặp ông nữa. Cách đây mấy năm, tôi nghe tin bà Sỹ qua đời.
Trong thời gian làm cho Văn Nghệ Tiền Phong, tôi được gặp và quen biết nhà văn Sơn Tùng. Lúc đó, ông ở tiểu bang khác, chỉ gửi bài cho cả Văn NghệTiền Phong lẫn Tiểu Thuyết Nguyệt San. Lối viết của ông đặc biệt, dí dỏm. Ông Hồ Anh rất thích văn của ông nên mời ông về Virginia làm chủ bút cho Văn Nghệ Tiền Phong. Tòa báo chịu mọi phí tổn di chuyển và tạm thời cho ông Sơn Tùng ở trong ngôi nhà mới mua của ông Nguyễn Thanh Hoàng tại McLean. Tình bạn của tôi với Sơn Tùng vẫn thân thiết cho đến ngày nay. Ngoài bút hiệu Sơn Tùng, ông còn hai bút hiệu khác nữa là Sương Lam và Thợ Hồ.
Năm 2007, ông Sơn Tùng, lúc đó là chủ tịch Văn Bút Việt Nam Hải ngoại, cho biết Đại Hội Văn Bút sẽ họp váo tháng 10 ở Bắc Virginia và có ý định tuyên dương ba người trong vùng thủ đô Mỳ, đó là : Vũ Hối, Vương Đức Lệ và tôi, Tôi từ chối cái vinh hạnh đó vì tự xét không xứng đáng..Thế là chỉ có hai ông Vũ Hối và Vương Đức Lệ được tuyên dương.
Về nhà văn Phan Nghị, tôi biết ông từ hồi còn ở Hà Nội khi ông viết phóng sự “Bờ Lờ” cho báo Tia Sáng. Tôi hiểu “bờ lờ” là buôn lậu, nhưng có người lại giải thích khác. Bờ lờ là…bổ lẻ. Ở ngoài hậu phương, trong thời gian chống Pháp, khi phải di chuyển xa, nếu có đường thủy thuận tiện, người ta đi thuyền cho đỡ mệt. Về đêm, khách đi thuyền thường phải ngủ chung trong khoang, cả nam lẫn nữ. Rồi chuyện “bất thường” có thể xảy ra. Đến sang, khi lên bờ, mỗi người đi một nẻo, không cần biết nhau nữa. Có phải như vậy là bổ lẻ (bờ lờ) không ?
Một hôm, tôi đang đi trên vỉa hè phố Huế,gần chợ Hôm với một người bạn cùng học Chu Văn An, một người đi xe đạp, miệng ngậm điếu thuốc lá, tay áo sơ mi ngắn vén cao lên, trông rất tay chơi, ghé vào vỉa hè để nói chuyện với một người đang đứng đợi. Bạn tôi nói nhỏ với tôi :”Ông Phan Nghị, tác giả Bờ Lờ đấy.”
Tôi không có hân hạnh quen Phan Nghị ngay hồi đó. Mãi về sau này, khi di cư vào Nam, tôi tham gia sinh hoạt văn nghệ mới quen ông. Một hôm, tôi đến tòa báo Ngôn Luận để đưa bài, gặp ông ở đó. Ông là một nhân viên tòa soạn. Trông thấy tôi, ông vừa cười vừa nói :”Mày đen như ống khói ấy.” Tôi tưởng ông chỉ nói đùa cho vui, không ngờ cuối tuần đó, trong mục Tin Văn Nghệ của báo Bông Lúa, ông gọi tôi là Tạ Ống Khói. Thế là tôi có hỗn danh từ đó (1957). Tôi không giận ông vì biết tính ông hay đùa vui, không có ác ý.
Phan Nghị viết phóng sự hay nên được thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ có cảm tình đăc biệt. Có lần ông được ông Kỳ cho ngồi máy bay khu trục đi theo đoàn máy bay ra Bắc vĩ tuyến 17 để oanh tạc đất Bắc. Khi có hội nghị Paris, ông cũng được ông Kỳ cho sang Pháp theo dõi để viết phóng sự cho báo Chính Luận.
Bạn bè ai cũng biết ông có tính “phổi bò”, nghĩa là biết gì nói đó, không cần giữ ý. Ông dặn bạn bè là có gì cần giữ bí mật thì đừng cho ông biết.
Tôi quen thi sĩ Vương Đức Lệ rất tình cờ. Vào cuối thập niên 1990, tôi bắt đầu liên lạc với Văn Quang bằng email. Một hôm, người trả lời thư tôi không phải Văn Quang mà là Vương Đức Lệ.  Ông viết :”Anh Khôi ơi, tôi là Vương Đức Lệ.đây. Tôi đọc truyện anh từ hồi anh viết cho báo Tự do.” Tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú. Tôi biết tiếng Vương Đức Lệ từ lâu. Ông là một thi sĩ đã được giải thưởng văn chương toàn quốc cùng với thi sĩ Mai Trung Tĩnh. Tình bạn của chúng tôi bắt đầu từ ngày đó. Rôi khi gia đình ông được các bà em Lê Thị Ý, Lê Thị Nhị bảo lãnh sang Mỹ, lại cùng ở Virginia, chúng tôi thân nhau hơn. Thỉnh thoảng các bạn văn nghệ trong vùng họp nhau thì tôi lại được gặp ông. Ông nghiện thuốc lá rất nặng, mỗi ngày hút trên 20 điếu. Có lần tôi đề nghị ông giảm bớt dần, rồi bỏ luôn. Nhưng ông không đồng ý. Rồi chỉ khi ông bị ung thư phổi, phải thở bằng dây oxy thì mới bỏ được thuốc lá, nhưng đã quá trễ. Một hôm, tôi đến thăm, ông nằm trên giường bình tĩnh nói với tôi :”Xong rồi, ông ạ.” Mấy hôm sau, nhà văn Hoàng Hải Thủy gọi dây nói báo tin :”Vương Đức Lệ đi rồi.”,
Hồi còn ở Saigon, tôi không có hân hạnh quen nhà văn Uyên Thao. Thỉnh thoảng đến báo Chính Luận, tôi gặp ông, nhưng không ai giới thiệu cho chúng tôi quen nhau. Vì thế, tôi không biết ông làm cho báo nào. Mãi khi ra hải ngoại, tôi mới được quen ông. Hôm gia đình ông đến Mỹ theo diện HO, các bạn ở vùng Falls Church (VA) rủ tôi ra phi trường đón ông..
Uyên Thao là người có nhiều công với giới văn học hải ngoại khi ông sang lập Tủ Sách Tiếng Quê Hương. Khi bị ung thư bao tử, trước khi vào phòng mổ, ông gửi email chào vĩnh biệt các bạn. Nhưng cuộc giải phẫu thành công mỹ mãn.
Cuốn tiểu thuyết dã sử “Trong Ánh Lửa Thù” của ông được nhiều nhà phê bình văn học ca tụng nhiệt liệt.
Tôi không rõ thi sĩ Nguyên Sa và gia đình từ Pháp về Việt Nam bao giờ, một hôm, nhà văn Thanh Nam rủ tôi đến thăm ông. Nhà ông ở trong một hẻm gần chợ Thái Bình. Từ ngày đó tôi mới bắt đầu quen thi sĩ.
Năm 1960, Nguyên Sa xuất bản nguyệt san Hiện Đại, Thái Thủy làm thư ký tòa soạn. Nguyên Sa đề nghị tôi viết bài cho nguyệt san. Hồi đó tôi đang học sư phạm nên không có nhiều thì giờ, thỉnh thoảng mới có thể đóng góp một bài. Tôi không nhớ Hiện Đại ra được bao nhiêu số thì ngưng.
Ngoài việc làm thơ, viết văn, Nguyên Sa còn là một giáo sư Triết của Chu Văn An. Sau này, ông mở một trường tư riêng của ông, tên là Văn Học. Trường sở nằm trên đường Phan Thanh Giản. Gia đình ông ở ngay trong trường. Một hôm, chúng tôi tình cờ gặp nhau ở giữa đường. Ông lái xe Peugeot 403 màu xám nhạt, tôi đi xe Nhật. Thấy tôi, ông vẫy tay gọi. Chúng tôi ngừng lại ở giữa đường. Ông nói nhanh :”Đến moa ngay nhé.” Tôi không biết có chuyện gì, nhưng nhận lời vì đang rảnh. Ông đợi tôi ở ngay cửa trường Văn Học, đưa tôi vào nhà, phía sau trường. Ông đưa cho tôi một tập bản thảo và đề nghị tôi đem về đọc. Trước khi chia tay, ông cho biết cuốn sách này bị sở Kiểm duyệt bộ Thông Tin không cho xuất bản. Về nhà tôi mở bản thảo ra, tựa sách là “Vài Ngày Làm Việc Ở Chung Sự Vụ”. Khi bị động viên vào Thủ Đức, Nguyên Sa  ra trường với lon chuẩn úy. Ông được bổ nhiệm vào Chung Sự Vụ, nơi lo việc mai tang các chiến sĩ bị tử trận. Ông đã chứng kiến những chuyện đau lòng của thân nhân những người quá cố. Sở Kiểm duyệt bộ Thông Tin coi cuốn sách có tinh thần phản chiến, nên cấm xuất bản.
Sau này tôi không rõ gia đình Nguyên Sa sang Mỹ bằng cách nào. Ông định cư ở Nam Cali và xuất bản tở tuần san Đời. Vào dịp đó, tôi không rõ vì lý do gì mà ký giả Lê Triết viết bài công kích Nguyên Sa, với lối viết rất độc địa, bới móc cả than phụ thi sĩ. Tôi không được đọc báo Đời nên không biết Nguyên Sa có trả lời không ?
Hậu quả lối viết độc địa của Lê Triết là cả hai vợ chồng ông đều bị bắn chết trên xe hơi ở trước cửa nhà. Vụ ám sát này không được làm sang tỏ vì cảnh sát Mỹ không chịu điều tra đến nơi đế chốn nên không biêt ai là thủ phạm. Người ta chỉ phỏng đoán Mặt Trận Hoàng Cơ Minh chủ mưu. Lê Triết đã viết nhiều bài tố cáo Mặt Trận lừa bịp những người yêu nước chống cộng ở hải ngoại để quyên tiền..
Trong thời gian Lê Triết bới móc gia đình Nguyên Sa, tôi đang làm cho Văn Nghệ Tiền Phong nên bị Nguyên Sa ghét lây vì tưởng tôi về phe Lê Triết. Khi nghe tin thi sĩ bắt đầu bị ung thư. Tôi bay xuống Nam Cali để thăm ông, nhưng ông không tiếp vì cho tôi về phe với Lê Triết.. Thật đáng buồn đã không được gặp ông trước khi ông ra khỏi cõi đời này.
Tôi không về phe với Lê Triết vì chính tôi cũng là nạn nhân của ông, như tôi đã đã kể ở trên.
Khi ông Hồ Anh xuất bản tờ Thời Thế thay cho Ngôn Luận mới bị đóng cửa vì không kịp nộp tiền hối lộ (300 ngàn) cho ông tân bộ trưởng Thông Tin mới là tướng Đỗ Mậu, tôi làm phụ tá cho chủ bút là nhà văn Lê Xuyên, tác giả cuốn tiểu thuyết rất nổi tiếng “Chú Tư Cầu”.. Ông Lê Xuyên là người Nam, có một thời hoạt động cách mạng, theo đảng Ðại Việt nên đã từng ra Bắc và lấy vợ Bắc. Ông hiền lành, dễ tính, nói năng từ tôn, khác hẳn các nhân vật trong truyện của ông. Sau năm 1975, khi tôi dã sang Mỹ, nghe tin ông phải bán thuốc lá ở một góc đường Khổng Tử trong Chợ Lớn để tạm sống cho qua ngày. Cách đây khoảng 7 hay 8 năm, bạn hữu ở Saigon báo tin ông đã từ trần.

Vế các nhà văn nữ, tôi chỉ quen một số ít. Tôi có bốn bà em kết nghĩa. Mấy bà gọi tôi là Anh Hai. Cô Ba là Trần Thị Lai Hồng, một nghệ sĩ chuyên về tranh trên lụa, nên lấy tên email là Art On Silk. Tôi quen Lai Hồng khi cùng làm đài phát thanh Saigon vào cuối thập niên 1950. Cô Tư không viết văn mà cũng không hoạt động trong ngành nghê thuật, nhưng có liên hệ mật thiết với nghệ thuật. Cô là em kết nghĩa của nữ danh ca Thái Thanh và ở chung nhà với gia đình Thái Thanh. Khi Lê Quỳnh ghen với Mai Thảo, rút sung bắn vợ. Thanh Sơn liền đứng vào giữa hai người để hừng đạn cho bà chị kết nghĩa. Thanh Sơn không chết, chỉ bị mất một lá phổi nên bị xuyễn nặng. Thanh Sơn đã từ trần, thọ 79 tuổi. Người em kết nghĩa thứ ba là Cô Năm, tức Đặng Mỹ Dung, Yung Krall, tác giả cuốn “Ngàn Giọt Lệ Rơi.” (A Thousand Tears Falling). Em út là Đỗ Dung, tác giả tuyển tập truyện ngắn “Như Một Thoáng Mây Bay”.Có lần Đỗ Dung nói đùa với tôi :”Chỉ mình em là út thôi đấy nhé, không có út thêm hay út hai, út ba gì nữa đấy.” Tôi thân với Đỗ Dung vì khi gia đình Dung vượt biên, tôi gửi thằng con thứ hai đi cùng. Mỗi khi liên lạc qua email, Dung gọi tôi là Anh già và xưng Út.
Trong vùng Virginia có một số nữ văn nghệ sĩ, như : Lê Thị Ý, Lê Thị Nhị, sang lập và chủ trương tờ nguyệt san Kỷ Nguyên Mới, Hồng Thủy, tác giả cuốn “Những Cánh Hoa Dại Màu Vàng”, Ngọc Hạnh với tác phẩm “Du Ngoạn Đó Đây”...Dù thân, tôi cũng ít liên lạc với các bà vì tôi đã lớn tuổi, không còn thích tham dư các buổi họp mặt.
Ngoài ra, tôi cũng còn quen biết một số văn nghệ sĩ khác nữa, nhưng tôi không muốn nhắc tới họ với những lời tiêu cực.

                                                                                                                TQK
                                                                                                             (7-2014)                                       
                                                                          

Monday, June 30, 2014

Quê hương tôi

Làng tôi đấy, mây chiều vương ngõ biếc,
Nắng hoàng hôn sưởi ấm mái tranh nghèo.
Đoàn mục tử đùa vui trong tiếng sáo,
Thôn nữ cười e ấp mộng tình yêu.

Làng tôi đấy, Hồng hà cuồn cuộn sóng,
Ruộng đồng xa bát ngát cánh cò bay.
Mùa gặt mới ngào ngạt hương lúa chin,
Trai tráng làng ngây ngất chút men say..

Làng tôi đấy, ôi, còn đâu dĩ vãng,
Thôn nữ buồn ngơ ngác ngọn cờ hồng.
Thân nô lệ, trai làng trong khắc khoải,
Tương lai nào ? Chỉ bóng tối mênh mông.
                                      

                                                28 5 2014