Saturday, September 17, 2011

                    TÌNH XA
                                          Tạ Quang Khôi

Ô
ng bà Luyện xa nhau đã hơn bảy năm mà bây giờ được gặp lại cũng không tỏ vẻ mừng vui.  Họ cười với nhau, nắm tay nhau, nhưng cả hai đôi mắt đều thiếu vẻ trìu mến, thiết tha. Chỉ cò mấy đứa con theo bà từ Việt Nam qua là mừng vui khi được gặp cha.
            Sau khi lấy hành lý, mọi người lên chiếc xe “ven” của ông Luyện để rời phi trường. Xe vừa nổ máy, con Thảo, mới 8 tuổi, bỗng lên tiếng hỏi :
            “Bao giờ bác Thạnh sang Mỹ với mình, hả má ?”
            Câu hỏi ngây thơ của nó làm bà Luyện giật thót mình, trong khi mặt ông Luyện bỗng đanh lại. Thằng Ðạt, lớn nhất trong ba đứa con, liền lên tiếng nạt em:
            “Câm cái mõm lại, Thảo !”
            Con Thảo ngơ ngác không hiểu tại sao lại bị anh mắng. Bác Thạnh không phải là người thân của gia đình nó sao ? Hàng ngày bác vẫn đến chơi và thường cho quà anh em nó.
            Khi xe ngừng lại trong một bãi đậu xe của khu nhà cho mướn, ông Luyện nói :
            “Tôi thuê cho bà và các con ở tạm đây một căn có hai phòng ngủ. Tôi sẽ cố gắng giúp bà trong hai năm, sau đó bà phải tự túc. Chắc bà cũng biết rằng tôi phải bảo lãnh cho bà sang Mỹ cũng chỉ vì tương lai của các con ?”
            Bà Luyện im lặng, rồi cùng các con mang hành lý theo chồng vào khu nhà cho thuê. Vì là khu rẻ tiền, không có thang máy, phải leo cầu thang lên tầng thứ ba với nhiều hành lý nặng nề. Nhà tuy nhỏ nhưng có đủ tiện nghi tối thiểu. Ông Luyện cũng đã sắm sửa thêm nhiều thứ cho bốn mẹ con. Cả hai phòng ngủ đều có bốn giường ngủ cá nhân. Hai đứa con trai ở riêng một phòng, Con Thảo ngủ với mẹ.
            Trước khi chia tay, ông Luyện nói :
            “Cuối tuần sẽ đưa đi mua quần áo.”
            Bà Luyện giữ im lặng với một vẻ chịu đựng.
            Vì mệt mỏi sau một cuộc hành trình dài, mấy đứa nhỏ leo lên giường ngủ ngay. Bà Luyện tuy cũng mệt nhưng không buồn ngủ. Bà ngồi bên cửa sổ thẫn thờ nhìn xuống bãi đậu xe. Tâm trí bà lan man rồi dần dần đi ngược về dĩ vãng…
            Bà Luyện, tên con gái là Ngọc Lan, kết duyên vói ông Luyện khi bà là một thư ký đánh máy cho một sở tư ở Saigon. Lúc đó ông Luyện là chủ sự phòng làm việc của bà. Gia đình không giầu, nhưng phong lưu, có đôi chút dư dả vì bà căn cơ, tần tiện. Khi vợ chồng bà có đứa con thứ ba thì cộng sản chiếm miền Nam. Cuộc sống trở nên khó khăn vì cả hai cùng thất nghiệp. Lúc đó cả miền Nam sôi sục vì phong trào vượt biên trốn cộng sản. Ông bà Luyện cũng tính tới chuyện đó, nhưng có hai vấn đề phải giải quyết. Thứ nhất, ông bà không đủ vàng để đi cả gia đình. Thứ hai, con Thảo còn nhỏ quá, không thể đưa nó ra biển dù có người sẵn sàng cho mượn vàng để đóng cho chủ ghe. Thế là ông Luyện đi một mình. Hai ông bà hẹn sẽ gặp lại nhau sau hai năm nếu ông tới được bến bờ tự do. Ông lên đường vào một đêm giữa thasng 3 âm lịch. Lúc đó trong dân gian có câu truyền tụng ”Tháng ba bà già đi biển”, ý nói vào tháng này sóng yên bể lặng. Ông đi được bốn ngày thì bà được tin thuyền của ông đã ra thoát hải phận quốc tế, nghĩa là không bị kẹt vấn đề an ninh. Rồi một tháng sau, bà nhận được thư ông gửi từ một trại tỵ nạn ở Mã Lai. Trong thư, ông cho biết ông đã được phái đoàn Mỹ nhận. Trong vòng sáu tháng ông sẽ được đi Mỹ định cư. Như vậy, sau hai năm ông sẽ có thể làm giấy tờ bảo lãnh cho vợ con sang đoàn tụ. Giấc mơ được đoàn tụ với chồng trên đất Mỹ khiến bà háo hức chờ đợi…Nhưng hai, rồi ba năm qua, bà không nhận được giấy tờ bảo lãnh. Thư từ của ông cũng mỗi lúc một thưa. Không những thế, tiền bạc ông gửi về giúp gia đình cũng không đều, rồi đến năm thứ ba thì ngừng luôn. Thư bà gửi đi không có hồi âm. Khi thấy lũ con bắt đầu thiếu thốn, bà đành liều ra chợ trời buôn bán lặt vặt để tạm sống nheo nhóc cho qua ngày.
            Một hôm, đứa con gái út của bà bị bênh phải đưa vào nhà thương cấp cứu. Ngoài số thuốc bình thường của nhà thương, bà phải mua một vài loại thuốc trụ sinh ở chợ tròi. Bà rất lúng túng vì không đủ tiền. Nhìn con nằm sốt li bì, tính mạng bị đe dọa, bà chỉ biết khóc sụt sùi. Biết vay tiền ai bây giờ để mua thuốc cứu con ? Một ông y tá thấy vậy thì rủ lòng thương, bèn đi mua thuốc để tiêm cho con bà. Nhờ vậy, nó thoát chết. Cảm động trước lòng tốt của ông, bà coi ông như một người bạn tốt. Tình bạn mỗi ngày thêm đằm thắm rồi trở thành tình yêu lúc nào không hay. Ông lén vợ lo cho bốn mẹ con bà được sống đầy đủ.
            Khi nghe tin vợ đã có người yêu, ông Luyện đã định không bảo lãnh cho mẹ con bà sang Mỹ. Nhưng rồi ông đổi ý vì nghĩ đến tương lai của lũ trẻ. Thật ra, chính ông cũng đã có người đàn bà khác. Ngay từ khi mới đến đảo tỵ nạn ông đã dan díu với một người đàn bà trẻ, chồng chết trong trại tù cải tạo, chưa có con. Hai người may mắn cùng được định cư ở Hoa Kỳ. Chính vì thế, ông lần lữa không bảo lãnh cho vợ con sang đoàn tụ ngay. Nhưng dù sống với người mới ông vẫn chưa hợp thức hóa để thành vợ thành chồng vì ông còn nhớ tới lũ con nhỏ. Rồi khi ông biết tin vợ có người tình, ông càng phân vân hơn.
            Một hôm, biết ông khó xử về việc bảo lãnh gia đình, bà Hoa, vợ mới của ông Luyện, góp ý :
            “Theo em, anh cứ bảo lãnh cho trọn tình trọn nghĩa. Sau đó, anh với chị thẳng thắn gỉai quyết dứt khoát với nhau. Hơn nữa, anh không thể bỏ rơi các cháu được.”
            Thấy bà nói có lý, ông xúc tiến việc bảo lãnh ngay. Vì thế, khi hai vợ chồng gặp lại nhau sau bảy năm xa cách mà không vui.
            Sau khi suy nghĩ kỹ, bà Luyện cho rằng bà không có lỗi. Bà đã kiên nhẫn chờ đợi, nhưng chính ông đã bỏ rơi bốn mẹ con bà để vui thú với mối tình mới. Rồi vì hoàn cảnh đưa đẩy, bà mới phải liên lạc thân mật với ông Thạnh. Bà không là người làm tan vỡ tình gia đình, chính ông mới là kẻ phụ bạc. Ðáng lẽ ông phải hòa dịu để che giấu lỗi của mình, vậy mà ông còn vênh váo trách móc bà. Thế rồi bà quyết định đối chất với ông. “Lành thì làm gáo, vỡ làm môi” bà thầm nghĩ như vậy. Bà gọi điện thoại cho ông, đòi gặp ông ngay. Nhưng ông hẹn buổi tối vì đang ở sở làm. Nhưng ông lại không giữ đúng lời hứa, lần lữa mãi đến cuối tuần mới cùng bà Hoa tới.
            Vừa mời hai người vào nhà, chưa kịp mời ngồi, bà đã lên tiếng trách ông ngay :
            “Ông có biết ông chính là người đã làm tan nát gia đình không ?”
            Ông Luyện bị bất ngờ nên lúng túng nhìn bà chằm chặp mà không nói nền lòi. Bà Hoa cũng ngạc nhiên trước thái độ hung hăng của bà Luyện.
            “Khi ông vượt biên, bà Luyện tiếp, nhà không đủ tiền, tôi phải đi vay đi mượn để đóng cho chủ ghe. Ông hứa khi được định cư ở bất cứ nước nào cũng làm giấy tờ bảo lãnh cho bốn mẹ con tôi sang đoàn tụ. Thế rồi ông quên lời hứa. Chờ đợi lâu, không có tiền đẻ sống, tôi phải bỏ con thơ ở nhà để buôn bán chợ trời. Khi con Thảo bị bệnh nặng, tôi không có tiền mua thuốc, người ta giúp đỡ tôi cứu sống nó. Một mặt ông bỏ rơi mẹ con tôi, một mặt người ta giúp đỡ tận tình, làm sao tôi không cảm động cho được. Bây giờ ông lên mặt trách tôi không chung thủy. Ông hãy sờ gáy ông xem ai là người phụ bạc trước ?”
            Ông Luyện đúng chết trân, không thốt được một lời. Bà Hoa cũng giữ im lặng, nhưng trong thâm tâm bà công nhận bà Luyện có lý. Ngừng một chút, bà Luyện tiếp :
            “Tôi mời ông đến đây để báo cho ông biết tôi sẽ về lại Việt Nam. Ông đã nói chỉ vì tương lai của ba đứa nhỏ mới bảo lãnh bốn mẹ con tôi sang Mỹ, vậy tôi xin trao cho ông ba đứa nhỏ để ông nuôi nấng, dạy dỗ cho chúng có tương lai.”
            Bà vừa dứt lời, từ trong phòng ngủ, con Thảo nói vọng ra :
            “Con về Việt Nam với má cơ.”
            Tức thì hai anh chị nó về hùa với nó ngay.
            Ông Luyện vẫn giữ im lặng vì không biết đối đáp ra sao. Bà Hoa nhẹ nhàng lên tiếng :
            “Em xin có ý kiến như sau. Chị và các cháu cứ ở lại Mỹ đi. Ðã sang được đến đây mà quay trở về thì uổng quá.”
            Bà Luyện thầm công nhận đề nghị hợp lý, nhưng không nói gì.
            Mấy phút sau, bà Hoa lại lên tiếng, nhưng lần này có giọng ngập ngừng :
            “Ðàng nào thì…thì cũng không thể…hàn gắn được nữa…em có ý kiến này…để chị dễ giải quyết chuyện tương lai của chị…Anh Luyện sẽ xin ly dị với chị… Nhưng em xin bảo đảm ảnh sẽ giúp chị cho đến ngày chị và các cháu có cuộc sống ổn định.”
            Ông Luyện bỗng nói chêm vào :
            “Tất nhiên tôi không bỏ đói con tôi…”
            Nhưng ông chưa dứt lời, bà đã ngắt :
            “Vì ông đã bỏ đói chúng nó mới ra nông nỗi này.”
            Ông lại cứng họng, vẻ mặt ngượng ngùng. Bà Hoa nhỏ nhẹ nói với ông :
            “Anh cứ để mặc em nói chuyện với chị…Ðàn bà với nhau dễ hiểu nhau hơn.”
            Ngừng một chút, bà Hoa tiếp :
            “Khi đã ổn định, chị có thể bảo lãnh anh Thạnh sang đoàn tụ với chị…”
            Bà chưa dứt lời, bà L:uyện đã ngắt :
            “Tại sao tôi phải bảo lãnh ông Thạnh ? Tôi việc gì phải đoàn tụ với ông ấy. Ông ấy với tôi có là vợ chồng đâu mà đoàn tụ với chả xum họp ? Tôi ăn nàm với ông ấy chỉ là một cách đẻ trả ơn mà thôi. Người ta bỏ tiền ra cứu con tôi sống sót, tôi không có tiền để trả lại người ta thì phải đem thân ra…mà thôi. Cũng như mấy cô gái điếm chỉ vì đồng tiền mà ngủ với khách làng chơi, đâu có yêu với thương gì ai.”
            Câu nói sỗ sàng của bà làm bà Hoa kinh ngạc trố mắt nhìn mà không thốt được một lời. Trong khi đó, mặt ông Luyện tím ngắt lại. Ðúng là một lời nguyền rủa, sỉ nhục quá nặng đối với ông. Chồng mà để vợ phải đi làm điếm nuôi cho con cái được sống sót thì người chồng đó còn mặt mũi nào ngước nhìn đời nữa. Nhưng ông thầm công nhận bà nói đúng. Chính vì ông đã bỏ rơi vợ con, chứ không phải bà là người hư hỏng. Ông đành dịu giọng hỏi :
            “Vậy bây giờ bà muốn gì ?”
            Thấy chồng đã chịu thua, bà không nỡ làm khó dễ ông nữa nên lắc đầu :
            “Tôi chả muốn gì hết. Bây giờ các con đã sang được đây, đã gặp bố, tôi an tâm rồi. Tôi giao con cho ông, rồi tôi sẽ vào chùa tu. Cuộc đòi tôi thế là mãn nguyện.”
            Bà quay sang bà Hoa, dịu dàng nói :
            “Xin chị thương các cháu, dạy dỗ các cháu nên người…”
            Bà Hoa nắm lấy tay bà Luyện, thân mật hứa :
            “Xin chị cứ an tâm, em coi các cháu như con em. Nhưng…nhưng…chị việc gì phải đi tu…”
            Bà Luyện khẽ thở dài :
            “Nói thật với chị, tôi cũng chán đời rồi. Sở dĩ tôi còn sống đến ngày nay cũng chỉ vì mấy đứa nhỏ thôi. Bây giờ tôi đã trông thấy tương lai của chúng sáng sủa thì không còn gì vướng mắc tôi nữa. Tôi nghĩ rằng kiếp trước tôi vụng tu nên kiếp này gặp nhiều đau khổ, gian truân. Nay đã đến lúc tôi có thể lo cho kiếp sau.”
            Bà Hoa khẽ thở dài :
            “Nếu chị đã quyết, em sẽ đưa chị tới thăm một ngôi chùa toàn các sư nữ. Có điều hơi xa. Nhưng đã đi tu thì xa gần đâu có quan trọng. Em tin là chị sẽ thích ngôi chùa này. Toàn các vị chân tu cả.”
            Bà Luyện vui vẻ :
            “Nếu được như vậy, tôi rất cảm ơn chị.”
                                                                                         TQK
                                                                                         (9-2011)      

Thursday, September 8, 2011

HỒ XUÂN HƯƠNG
   và NHỮNG NGHI VẤN
                                                                                                 Tạ Quang Khôi
N
gười đầu tiên dùng phân tâm học của Freud trong văn chương Việt Nam có lẽ là ông Nguyễn Văn Hanh. Năm 1936, ông Nguyễn viết trong cuốn HỒ XUÂN HƯƠNG : TÁC PHẨM, THÂN THẾ VÀ VĂN TÀI (xuất bản ở Saigon) rằng nữ sĩ họ Hồ là một người xấu xí, đen đủi, bị khủng hoảng về tình dục. Ông còn gọi thơ bà là thơ “hiếu dâm”. Đến cuối thập niên 1940 (hay đầu 50 ?) Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa, trong cuốn KINH THI VIỆT NAM cũng cho rằng nữ sĩ họ Hồ có những dồn nén tình dục.
Nhưng vào thời gian đó, chưa ai nghĩ rằng thơ Hồ Xuân Hương không phải do chính nữ sĩ họ Hồ sáng tác. Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm còn viết một cuốn sách ca tụng bà là một nhà thơ cách mạng (Bốn Phương xuất bản năm 1950 ở Hà Nội). Đến cuối năm 1952, một nhóm người nêu giả thuyết không thực sự có một nữ sĩ tên là Hồ Xuân Hương. Thơ họ Hồ là thơ của nhiều nhà nho ẩn danh muốn giải tỏa những dồn nén tình dục của mình. Nhóm chủ trương “không có Hồ Xuân Hương” nêu lý do : trong thơ họ Hồ thường nhắc tới Chiêu Hổ, tức Phạm Đình Hổ, tác giả “Vũ Trung Tùy Bút”. Thế mà trong tác phẩm này, họ Phạm không hề nhắc tới người đã từng xướng họa thơ với mình. Rồi họ kết luận : không có nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Chúng tôi e rằng nếu chỉ dựa vào lý do đó – theo thiển kiến, nó thiếu tính chất khoa học, nên chưa đủ sức mạnh thuyết phục – mà quyết định một vấn đề rất quan trọng trong văn học sử thì e quá hồ đồ. Nhưng chủ trương đó cũng làm một số người phân vân, hoang mang.
Vào cuối thập niên 1950, Học giả Hoàng Xuân Hãn, trong một bài nghiên cứu, quả quyết rằng thực sự có một nữ sĩ tên là Hồ Xuân Hương trong văn học cổ Việt Nam. Tuy nhiên, học giả họ Hoàng xác nhận rằng thơ Hồ Xuân Hương có những bài không phải do chính nữ sĩ sáng tác.
Chúng tôi nghĩ rằng Hoàng tiên sinh có lý. Có thể có một số người không hiểu tại sao các nho sĩ, văn hay chữ tốt, làm thơ lại không dám nêu tên mình mà phải núp dưới bóng người khác. Thật ra, điều này cũng không khó giải thích.
Trước hết chúng ta phải tìm hiểu nền giáo dục Khổng-Mạnh. Đó là một nền giáo dục khắt khe, nhằm đào tạo một con người toàn vẹn, cả về đức độ lẫn tài năng. Nó đã đưa những người theo nó lên nấc thang cao nhất của một xã hội nặng về nông nghiệp : Sĩ, Nông, Công, Thương. Dường như sau “Cách mạng tháng Tám” (1945) người ta mới thêm một đảng cấp nữa, đó là “Binh”. Kẻ sĩ, nhà nho, là một lớp người được cả xã hội quý trọng, kính nể. Họ tiến lên thì làm quan giúp vua, giúp nước, giúp dân; lui về thì dạy học, vun trồng thế hệ mai sau. Đó là “Tiến vi quan, thoái (hay đạt) vi sư.” Vì được tất cả mọi người trong xã hội kính nể, họ phải làm gương tốt cho thiên hạ noi theo. Muốn thế, nhà Nho phải luôn luôn giữ cho lòng được ngay thẳng, trong sáng
Để giữ cho lòng được ngay thẳng, trong sáng, họ chỉ nghĩ tới những điều cao đẹp, nói những điều hay để người khác nghe theo. Do đó, trong Hán tự, chữ CÁT  (tốt lành) được ghép hai chữ SĨ và KHẨU ( ) nghĩa là những gì xuất phát từ miệng của kẻ sĩ đều tốt lành. Nho giáo khắt khe như vậy nên quả thật rất ít người theo đúng được, trừ những bậc thánh hiền. Con người ta dù ở địa vị đáng tôn kính nào vẫn là những con người với tất cả mọi nhu cầu, cả về vật chất lẫn tinh thần. Con người sẽ mất thăng bằng nếu chỉ thiên về một phía. Các nhà nho, dù ngày đêm “tụng” sách Thánh Hiền cũng không thể thoát ra khỏi thông lệ đó. Nho sĩ cũng là con người với tất cả “thất tình”. Họ cũng có những thèm khát vật chất như mọi chúng sinh khác. Nhưng họ phải giấu kín những gì lễ giáo cho là thấp hèn. Ngay cả vợ chồng cũng không được bộc lộ những thèm muốn về xác thịt, phải “tương kính như tân” (kính trọng nhau như khách). Đã “kính trọng nhau như khách”, vợ chồng không thể nói với nhau những lời xuồng xã, thô tục như những kẻ phàm phu. Trước mắt quần chúng, nhà nho càng phải nghiêm chỉnh hơn, lúc nào cũng phải nhớ rằng mình đang ở một địa vị cao quý nhất xã hội, “nhĩ mục quan chiêm”. Nhưng họ nghiêm chỉnh không có nghĩa là họ không có những thèm muốn về xác thịt. Thật ra, họ cũng muốn thỏa mãn những nhu cầu đó như mọi người bình thường khác.
Đối với những người đã hiển đạt  (thi đỗ, làm quan, giầu có) thì dù có phải coi vợ như khách, họ vẫn có cách giải quyết ổn thỏa. Họ có thể “nạp thiếp”,nghĩa là lấy vợ nhỏ, nàng hầu (trai năm thê, bảy thiếp…). Đối với vợ lẽ con thêm, họ không cần phải giũ lễ “tương kính như tân”.
Còn những nho sĩ chưa hiển đạt, chưa có đủ phương tiện để “nạp thiếp”, họ phải giấu kín những thèm muốn trong lòng để rồi chúng dần dần biến thành những dồn nén nhức nhối, khó chịu. Con đường giải tỏa tạm thời của họ là làm thơ, lén lút đưa cho nhau thưởng thức. Họ có thể là những người “văn chương chữ nghĩa bề bề”, thơ họ không phải là loại thơ “con cóc”. Rồi nhân đã có người nổi tiếng về lối thơ “dồn nén”, họ “đổ thừa” những bài thơ mới sáng tác của họ cho người đó. Thế là họ vẫn giữ được tiếng nhà nho ngay thẳng, lòng sáng như gương. Trong một bài hát nói tả một anh giả điếc, Nguyễn Khuyến đã có hai câu thơ chữ Hán mà mọi người cho rằng Cụ muốn ám chỉ thái độ nghiêm chỉnh giả tạo của một số nhà nho :
                                  “Tọa trung đàm tiếu nhân như mộc,
                                  “Dạ lý phan viên nhữ tự hầu.”
(Tạm dịch : Ngồi nói chuyện vui với mọi người thì như gỗ, đến đêm anh cũng leo trèo như vượn.)

Đến đây, chúng ta thử tìm hiểu cách phổ biến thơ  (nhất là thơ nôm, vì bị coi là “nôm na mách qué”, lại không phải là thứ văn tự được dùng trong thi cử) của cổ nhân Việt Nam. Các thi sĩ của ta ngày xưa không in thơ thành tập như các nhà thơ của thế kỷ 20. Có hứng thì làm thơ, nếu thấy hay, họ đưa cho bạn bè, người chung quanh cùng thưởng thức. Các nhà sưu tầm, nghiên cứu sau này đã mất rất nhiều thời giờ và công phu để gom góp lại. Tất nhiên chuyện “râu ông nọ cắm cằm bà kia” không thể tránh được. Do đó, trong văn học cổ Việt Nam, có nhiều trường hợp có những bài thơ có đến hai hoặc ba tác giả. Một thí dụ có liên quan đến hai nữ sĩ nổi tiếng trong văn học sử Việt Nam, vì cả hai cùng lấy chồng quan. Chuyện kể rằng : Một hôm, ông chồng quan đi vắng, bà vợ đăng đường xử án thay chồng. Một người đàn bà tên Nguyễn thị Đào, đệ đơn xin lấy chồng (có sách nói xin bỏ chồng để lấy chồng khác), bà quan liền phê vào đơn như sau :
                                            “Phó cho con Nguyễn thị Đào,
                                       “Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai ?
                                            “Chữ rằng : Xuân bất tái lai,
                                       “Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già.”
Có sách cho rằng mấy câu thơ trên của Hồ Xuân Hương (khi bà làm lẽ ông phủ Vĩnh Tường), có sách ghi tên tác giả là Bà Huyện Thanh Quan. Người ta thắc mắc người vợ lẽ trong xã hội cổ xưa có dám tự tiện đăng đường xử án thay chồng không, khi chính mình còn chịu cảnh “kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng” ?  Nhưng nếu xét về “văn phong”, ta thấy hợp với “khẩu khí” của Hồ Xuân Hương hơn.
Nhà thơ trào phúng Trần Tế Xương của Non Côi, sông Vị đã làm rất nhiều thơ chế diễu thói hư tật xấu (có khi chỉ xấu với riêng ông) cuả người trong tỉnh Nam Định. Hầu như mọi người đều đã đọc và lưu trữ thơ ông, nhưng con cháu ông lại không có lấy một bản.
            Về trường hợp thơ Hồ Xuân Hương, ta phải công nhận khó mà phân biệt bài nào do chính nữ sĩ sáng tác, bài nào không phải. Có người đã đề nghị một cách “nhận diện” như sau.
Khi người đàn ông bị dồn nén về tình dục, người đó sẽ nghĩ nhiều đến người đàn bà và thân thể của phái yếu. Người ta kể rằng một nhà cách mạng Việt Nam chống Pháp, khi bị tù quá lâu, đã mơ tưởng đến “nắm thuốc lào”.Vì thế, những thơ nói về thân thể người đàn bà, như “Vinh cái quạt” (Vành ra ba góc da con thiếu, Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa) chưa chắc đã do Hồ Xuân Hương sáng tác.  Ngược lại, khi người đàn bà bị dồn nén, người ấy phải nghĩ đến những cái hấp dẫn của người đàn ông, như bài “Vịnh ông quan:” :
                       ”Đầu đội nón da loe chóp đỏ,
                       “Lưng đeo bị đạn rủ quai thao”
Nhưng chúng tôi nghĩ rằng điều quan trọng nhất là chúng ta có một nữ sĩ tài ba đã sáng tác những bài thơ tuyệt diệu cho đến nay chưa ai sánh kịp. Vậy chúng ta có nên tìm hiểu xem bài nào do chính nữ sĩ họ Hồ sáng tác, bài nào của những ai khác không ?.Hay tất cả đều là thơ Hồ Xuân Hương .
            Các Cụ ta ngày xưa đã có câu :”Cá vào ao ai, người ấy hưởng”. Đó là một điều rất hợp lý, không ai có thể chối cãi đuwjc.
                                                                                                            TQK

Saturday, August 20, 2011

             KỶ NIỆM MỘT THỜI
                                                      Tạ Quang Khôi

N
gay từ  nhỏ, mới học lớp nhì, lớp nhất bậc tiểu học tôi đã mơ trở thành thi sĩ. Khi bước chân lên năm thứ nhất thành chung, sau này gọi là bậc trung học,  tôi bắt đầu làm thơ. Sở dĩ tôi mơ trở thành thi sĩ vì tôi có một thầy giáo kèm tại nhà là một thi sĩ có nhiều thơ được đăng trên các báo ở Hà Nội. Tỉnh tôi là một tỉnh nhỏ nên khi vị gia sư của tôi có thơ đăng báo thì ông trở thành một thi sĩ nổi danh ngay, ít nhất cũng là người tiếng tăm, tài hoa của cái tỉnh nhỏ bé, quê hương tôi. Có thầy học là thi sĩ nổi tiếng, tất nhiên tôi cũng mơ trở thành thi sĩ như thầy. Tôi đâu có biết rằng muốn làm thơ phải có tài chứ không phải làm được năm ba câu vè là thành thi sĩ ngay, nhất lả nhà thơ danh trấn một phương.
          Một hôm, tôi đưa bài thơ tôi vừa “sáng tác” cho Thầy xem. Đó là bài thơ đầu tiên trong đời tôi. Thầy xem xong, giữ im lặng một lúc khá lâu, rồi bảo tôi : “Cậu nên học hành chăm chỉ, đừng có thơ thẩn mà hỏng cả một đời.” Tôi gạn hỏi :”Nhưng anh (tôi quen gọi ông là anh) không cho em biết ý kiến của anh về thơ em.” Ông lại im lặng một lúc nữa rồi mớt trả lời : ”Cậu chưa biết làm thơ... hay nói thật cậu đừng buồn, cậu không có khiếu về thơ đâu.” Tôi thất vọng và đau dớn vì tự ái bị tổn thương. Nhưng sau đó, tôi nghĩ rằng ông thầy sợ tôi “cạnh tranh nghề nghiệp” với ông nên không muốn tôi cũng làm thơ như ông. Từ đó, tôi vẫn làm thơ và không thèm (hay không dám ?) đưa cho Thầy xem nữa. Tôi âm thầm tự coi mình là một thi sĩ.
          Khi đi kháng chiến chống Pháp, tôi cũng vẫn làm thơ. Chính nhờ những bài thơ tôi gửi đăng “báo viết tay” của đơn vị, tôi được chuyển  về làm trong tòa soạn “báo viết tay” của trung đoàn. Gọi là tòa soạn cho oai chứ thật ra chỉ có trần xì hai mống, một người biết vẽ và viết chữ đẹp, và một người soạn bài vở. Độc giả đa số là những chiến sĩ chưa qua bậc tiểu học. Ít ra tôi cũng nổi tiếng là thi sĩ của trung đoàn tôi. Xin giải thích về “báo viết tay”. Loại báo này không phải là bích báo (báo dán tương) mà cũng không phải là báo in đàng hoàng. Báo viết tay được viết trên một vài tờ giấy nhỏ, truyền tay cho nhau đọc vào những giờ nghỉ ngơi. Cũng có khi được đọc trong một buổi họp đông đủ mọi người. Loại báo này có tính cách thủ công nghiệp nặng về tuyên truyền hơn văn chương nghệ thuật.
          Giữa năm 1950, tôi bỏ kháng chiến, trở về Hà nội để đi học lại, rồi tiếp tục làm thơ. Thơ tôi được đăng trên một vài tờ tuần báo văn nghệ của đất Thăng Long. Nhờ những bài thơ đăng báo này tôi được quen biết một số văn nghệ sĩ của Hà thành hoa lệ. Chơi với tôi thân nhất là anh em anh Hoàng Phụng Tỵ và Hoàng Song Liêm, anh Lê Nguyên Ngư (vào Saigon đổi là Hồ Nam và Vương Tân), anh Song Nhất Nữ, anh Nguyễn Quốc Trinh, vv... Anh Hoàng Song Liêm còn có bút hiệu là Người Xứ Mộng trong tờ “Chiếu Bóng Tuần báo”, chuyên trả lời những thắc mắc của độc giả bốn phương về điện ảnh. Một trong những nữ độc giả trung thành của họ Hoàng sau đã trở thành Hoàng phu nhân khi Anh Liêm di cư vào Nam.
          Anh Hoàng Song Liêm và tôi dự định in chung một tập thơ, lấy tên là “Nắng Mới”. Thơ đã chọn lựa và gom góp đầy đủ, tiền in cũng đã sẵn sàng. Chỉ còn một việc cuối cùng là đem tiền và thơ tới nhà in là chúng tôi sẽ nổi tiếng như sóng cồn. Nhưng một việc không may đã xảy ra làm cuốn thơ tựa đề là “Nắng Mới” biến thành...nắng tàn, không bao giờ đuợc ra chào đời dù đã được chuẩn bị đầy đủ. Một buổi, anh Liêm và tôi rủ nhau đi ăn mừng tác phẩm sắp in. Chúng tôi vào một hiệu cà phê ở gần bờ hồ Hoàn Kiếm, uống cà phê và ăn bánh pâté chaud. Chúng tôi nhận ngay ra rằng paté chaud của hiệu Tùng Linh này ngon vô cùng, có thể coi như vô địch ở đất Thăng Long lúc bấy giờ. Thế rồi ngày nào chúng tôi cũng bỏ học (lúc đó Anh Liêm học đệ nhất ở Nguyễn Trãi, tôi ở Chu Văn An) để đến hiệu Tùng Linh “ăn mừng tác phẩm sắp in”. Tôi nghĩ rằng mình sắp là thi sĩ rồi, cần gì phải học. Chẳng bao lâu, tiền in thơ của chúng tôi bị hao hụt trầm trọng. Anh Liêm và tôi kiểm điểm lại số tiền dành cho việc in thơ không còn đủ trả nhà in nữa. Anh Liêm nói đùa :”Thôi, mình không thèm làm phiền hội đồng giám khảo của hoàng gia Thụy điển nữa, chờ một dịp khác vậy.” Thế là mộng in thơ đã tan thành mây khói, hay đúng ra là tan thành cà phê và pâté chaud. Chúng tôi quy lỗi cho ông chủ hiệu Tùng Linh đã bóp chết một thi phẩm...”để đời” trong trứng nước.
          Di cư vào Saigon, anh Hoàng Song Liêm gia nhập quân đội, đeo lon chuẩn úy đồng hóa chiến tranh tâm lý bộ Quốc phòng. Vào dịp đó, nhà văn lão thành Tam Lang cùng một nhóm văn nghệ sĩ Bắc Kỳ di cư xuất bản tờ nhật báo Tự Do. Tôi xin được một chân thư ký nhà in. Tại đây, tôi có hân hạnh được quen biết các nhà văn, nhà thơ bậc đàn anh nổi tiếng, như  các anh Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Đinh Hùng và Như Phong... Thỉnh thoảng thơ của tôi cũng được đăng trên nhật báo Tự Do. Anh Như  Phong là một người làm việc rất tích cực. Ngoài chức tổng thư ký tòa soạn rất bận rộn, anh còn viết một truyện dài hàng ngày. Hậu quả của sự làm việc quá hăng say là bệnh lao phổi. Anh phải nghỉ để chữa bệnh. Người tạm thay anh là anh Nguyễn Hoạt tức Hiếu Chân. Lúc đó, anh Như Phong đang viết truyện dài “Một Triệu Đồng”. Đáng lẽ khi anh nghỉ thì truyện cũng phải tạm ngưng, nhưng các vị trong ban chủ trương không muốn bỏ ngang, nên các anh Nguyễn Hoạt, Đinh Hùng, Bùi Xuân Uyên, Mặc Thu phải thay phiên nhau viết tiếp. Thi sĩ Đinh Hùng cũng là người làm việc rất tích cực. Ngoài mục thơ châm biếm hàng ngày “Đàn Ngang Cung” mà anh ký là Thần Đăng, anh còn viết một truyện dài dã sử, tựa đề là “Kỳ Nữ Gò Ôn Khâu” với bút hiệu Hoài Điệp Thứ Lang và vẽ tranh hài hước. Bây giờ anh lại phải viết phụ “Một Triệu Đồng” thì thật vất vả. Người nào cũng viết một vài kỳ, rồi không chịu tiếp tục nữa. Anh Nguyễn Hoạt một hôm bảo tôi : ”Cậu viết giúp một vài kỳ đi. Như Phong cũng sắp về rồi.” Tôi vừa ngạc nhiên vừa e ngại, vì tôi có viết truyện dài bao giờ đâu. Tôi rụt rè trả lời anh :”Nhưng tôi không đọc truyên của anh Như Phong, làm sao viết nổi.” Ngẫm nghĩ một lúc, anh bảo tôi : ”Thôi được, hôm nay tôi viết, ngày mai đến phiên cậu. Tối nay về xem lại từ đầu đi.” Tôi miễn cưỡng nhận lời. Tôi viết được vài kỳ thì thấy khổ sở và mệt mỏi quá vì vượt quá khả năng của tôi nên nhất định không viết tiếp nữa. Đúng vào lúc đó anh Như Phong đi làm lại. anh Nguyễn Hoạt nửa đùa nửa thật trách anh Như Phong đã làm khổ cả tòa soạn. Anh Như Phong viết thêm một vài kỳ nữa rồi chấm dứt truyện. Vì chấm dứt bất ngờ như vậy, khoảng trống đó chưa có truyện nào thay thế. Tòa soạn phân vân chưa biết tính sao thì anh Nguyễn Hoạt lại đề nghị :”Hay để anh Khôi viết trám chỗ đó đi. Mấy kỳ anh ấy viết thế truyên Một Triệu Dồng cũng được lắm.” Các anh Như Phong, Đinh Hùng, Vũ Khắc Khoan, Mặc Thu đồng ý ngay. Anh Mặc Đỗ đi vắng nên không có ý kiến. Các anh bảo tôi thử viết trước một đoạn xem sao. Đêm hôm đó tôi đã thức trắng để viết thử. Sáng ra, tôi đưa cho anh Nguyễn Hoạt một xấp  giấy mới viết, lấy tên truyện là”Vực Thẳm”. Anh vừa đọc vừa gật gù có vẻ đồng ý. Anh Vũ Khắc Khoan cũng đọc bản nháp của tôi, rồi bảo :”Việc đ. gì mày phải lấy bút hiệu, cứ chơi tên thật cũng có sao đâu.” Anh Khoan là bạn học của mấy ông anh họ tôi ở Bưởi nên coi tôi như em. Tôi nghe lời anh bỏ bút hiệu mà tôi vẫn dùng khi làm thơ.
          Thế là tôi trở thành một cây viết feuilleton một cách tình cờ và bất đắc dĩ. Nhưng nhật báo Tự Do không sống lâu. Vào cuối tháng 4 năm 1956, nội bộ có chuyện lủng củng. Rồi báo đóng cửa vào đầu tháng 5. Mới đây, anh Mặc Đỗ (hiện ở Texas) cho biết  nguyên nhân chính khiến nhật báo Tự Do phải dẹp tiệm là chuyện chính trị, chứ không phải nội bộ lủng củng. Anh Như Phong Lê Văn Tiến trước khi qua đời cũng xác nhận điều đó. Phủ Tổng thống thấy báo Tư Do của dân Bắc Kỳ di cư được độc giả ủng hộ nồng nhiệt mà ban chủ trương của tờ báo không một ai là đảng viên Cần lao Nhân vị, lại không phải người miền Trung mà cũng không ai theo Thiên Chúa giáo nên muốn lấy tờ báo về cho đảng viên Cần lao. Khoảng một năm sau báo Tự Do tái bản, chủ nhiệm là anh Phạm Việt Tuyền, người của phủ Tổng Thống. Anh Như Phong lại làm thư ký tòa soạn. Nhà văn đường rừng Tchya Đái Đức Tuấn giữ mục chuyện phiếm hàng ngày “Nói Hay Đừng” với bút hiệu là Mai Nguyệt. Sau Mai Nguyệt là Tiểu Nhã hay Hà Thượng Nhân tức Phạm Xuân Ninh và Hiếu Chân Nguyễn Hoạt. Tôi không nhớ ai trước ai sau hay viết xen lẫn ?
          Khi tới Mỹ theo diện HO, anh Như Phong có ghé thăm tôi ở Falls Church (VA) và ở lại chơi một tuần. Trong dịp này anh kể một chuyện vui về nói lái. Nhà văn Mai Nguyệt có lần viết trong mục “Nói hay đừng” (mà Tiểu Nhã nói ngược lại là...nứng hay đòi) đụng chạm tới ông Cao Văn Tường, chủ tịch quốc hội. Ông Cao đòi trừng phạt báo Tự Do. Khi nghe tin này, Mai Nguyệt  không những không sợ mà còn viết thêm một bài nữa lấy tựa đề là “Cao Tặc”. Có thể người đọc chỉ nghĩ rằng Mai Nguyệt đã coi ông Cao Văn Tường là giặc khi đòi trừng phạt báo Tự Do. Nhưng có người đã mét với ông Tường là Mai Nguyệt xúc phạm nặng nề đến ông chủ tịch quốc hội, nếu đọc ngược lai. Câu chuyện tưởng đã thành lớn ngay, nhưng nhờ sự dàn xếp khéo léo của bác sĩ Trần Kim Tuyến mà được thông qua một cách êm thắm..
          Về phần tôi, sau khi báo Tự Do của nhóm cụ Tam Lang đình bản, tôi thất nghiệp. Đang chới với lo lắng thì nghe tin đài phát thanh Saigon mở kỳ thi tuyển biên tập viên. Tôi bèn nộp đơn và đã trúng tuyển. Nhưng ngồi soạn tin cho xướng ngôn viên đọc được một thời gian thì tôi bắt đầu cuồng cẳng, xin đổi sang ban phóng viên chạy ngoài. Trong thời gian làm phóng viên, tôi có hai chuyện để nhớ suốt đời. Chuyện thứ nhất là chuyện cùng một bạn phóng viên khác của đài Saigon về Cần Thơ xem xử tử loạn tướng Ba Cụt. Cảnh dầu rơi, máu phun tóe ra làm tôi sợ đến run người. Khi trở về Saigon, tôi lên cơn sốt ba ngày liền. Chuyện thứ hai là chuyện ám sát hụt tổng thống Ngô Đình Diệm ở Ban Mê Thuột. Thủ phạm dấu khẩu tiểu liên trong áo mưa nên chỉ bắn được có một phát rồi súng bị kẹt. Người ta cho rằng nếu cả băng đạn ra khỏi nòng một cách trơn tru thì tổng thống Diệm cũng không thoát mà các nhà báo vây quanh tổng thống cũng sẽ có nhiều người bị trúng đạn. Viên đạn duy nhất đã trúng ông bộ trưởng canh nông Đỗ Văn Công sau khi xẹt qua lưng ký giả Trực Ngôn của báo Tự Do. Thủ phạm bị bắt ngay tại trận. Đến sau chính biến giết anh em tổng thống Diệm vào đầu tháng 11 năm 1963, thủ phạm vụ mưu sát này đã được trả tự do.

          Trong thời gian làm đài phát thanh Saigon, tôi vẫn cộng tác với báo Ngôn Luận và Văn Nghệ Tiền Phong. Tôi viết truyện dài cho cả hai báo.  Văn Nghệ Tiền Phong có mục giải đáp tâm tình do bà Tùng Long phụ trách. Một hôm, độc giả gửi thư than phiền bà Tùng Long đã xúi người ta bỏ vợ, bỏ chồng. Cách đây nửa thế kỷ, ở Việt Nam, chuyện vợ chồng ly dị là chuyện ít xảy ra nên độc giả mới coi là quan trọng. Ngày nay, trên các báo hàng ngày ở Mỹ, các bà giải đáp tâm tình Mỹ thường khuyên độc giả ly dị mà có thấy ai phàn nàn gì đâu. Ông chủ nhiệm Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng quyết định “chấm dứt nhiệm vụ” của bà Tùng Long. Thoạt tiên, ông chuyển mục đó cho Anh Tử Vi Lang, tức Thày Gòn. Anh Tử Vi Lang viết cho cả hai báo, Ngôn Luận và Văn Nghệ Tiền Phong, lại mới cưới vợ nên lúc nào cũng than “ bận quá, bận quá”, bèn đẩy sang cho tôi. Vì không ai chịu nhận, tôi đành miễn cưỡng nhận và giao hẹn chỉ làm tạm một vài kỳ để kiếm người thay thế chính thức. Tôi lấy bút hiệu cho mục giải đáp tâm tình này là Diễm Hồng, tên một cô bạn học lớp đệ nhất Chu Văn An ở Hà Nội. Anh

                                          
                                     
                                              Nguyễn Thị Diễm Hồng (1953)
Tử Vi Lang chê cái tên “quá hiền lành”, e không “ăn khứa” nên thêm chữ Kiều  cho có vẻ cải lương. Bút hiệu Kiều Diễm Hồng xuất hiện từ ngày đó. Tôi chỉ giữ mục này có vài kỳ, rồi trả lại cho tòa soạn, vì tôi vừa làm đài phát thanh vừa viết truyện dài hàng ngày và vừa tiếp tục đi học. Tôi không rõ sau tôi là những ai đã từng mang tên Kiều Diễm Hồng, chỉ nhớ rằng tên đó đã được nhà báo Thái Linh dùng rất lâu, rồi mang sang báo Chính Luận sau này.                                        
          Vào cuối năm 1957, tôi có một chuyện buồn nên quyết định bỏ viết văn, viết báo để đi học lại toàn thời gian. Sau đó, tôi sống bằng nghề gõ đầu trẻ, một công chức nhà nước. Đến năm 1967, vào thời kỳ “Kinh tế kiệm ước” của ông tổng trưởng Phạm Kim Ngọc, lương công chức của tôi không đủ sống cho một gia dình năm người. Tôi phải chọn lựa hoặc đi dạy tư hoặc trở lại nghề viết báo. Dạy tư, nếu muốn kiếm đủ tiền để sống, tôi sẽ phải dạy nhiều lóp, mỗi lớp có vào khoảng từ 90 đến 100 học sinh. Cứ hai tuần lại phải chấm bài một lần. Số bài chấm sẽ rất nhiều, e không làm nổi. Trong khi đó, tôi vẫn phải dạy đủ số giờ quy định ở trường công.  Vì thế, tôi quyết định trở lại với báo chí. Vào dịp đó, Anh Đinh Từ Thức (bút hiệu Sức Mấy) phụ trách tòa soạn một tờ nhật báo mới xuất bản. Đó là tờ Saigon Báo mà chủ nhiệm là Anh Roch Cường, một giáo sư dạy Pháp văn nổi tiếng trong giới tư thục. Anh Đinh Từ Thức cần người giúp anh trong việc tòa soạn nên mời Anh Trịnh Viết Thành và tôi cộng tác. Tôi nhận lời ngay. Ngoài việc tòa soạn phụ cho Anh Sức Mấy, tôi còn viết một truyện dài và một phóng sự.
          Một hôm, tôi gâp Anh Trần Phong Giao ở bưu điện Saigon. Anh hỏi tôi :
” Cậu viết lại rồi hả ?” Tôi gật đầu. Anh cười nói :”Đó là cái Nghiệp, làm sao trốn tránh được.” Tôi chợt nghĩ đến hai câu thơ của Nguyễn Du trong Kiều :”Đã mang lấy nghiệp vào thân, Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa!              
                                                                                                              TQK
                                                                                                        (9 – 2003)

Thursday, August 4, 2011

      CHO TRỌN CUỘC TÌNH
                                      Tạ Quang Khôi

    S
au nhiều ngày phân vân và tính toán, ông Hưng quyết định bay tới tiểu bang xa miền Ðông Bắc Hoa Kỳ để gặp lại bà Xuyến, người tình cũ, Tuy vậy, lòng ông vẫn còn ấm ức, bất định. lúc thì thương yêu lúc thì giận ghét. Hồi xưa, bà là người tình đầu tiên mà cũng là người phụ bạc, đã làm ông đau khổ suốt một thời gian dài. Hai người yêu nhau tha thiết, quyết định đi đến hôn nhân. Mọi chuyện đã sắp xếp xong xuôi giữa hai gia đình, nhưng gần đến ngày cưới thì bà từ hôn. Tất cả mọi người đều ngạc nhiên, kể cả gia đình bà. Không ai hiểu tại sao bà lại có quyết định bất ngờ ấy. Không những thế, bà còn cương quyết từ chối gặp ông khi ông muốn hỏi lý do từ hôn.
            Nhưng mọi người không phải đợi lâu. Chỉ một tuần sau bà nhận lời cầu hôn của một bác sĩ trẻ mới ra trường. Mọi người mới vỡ lẽ bà đã ham cái bằng bác sĩ mà phụ bạc người vị hôn phu. Gia đình bà đều tỏ vẻ bất mãn và xấu hổ về lý do thay đổi này. Ông Hưng thì đau đớn vì tự ái nhiều hơn thất tình. Ông chỉ là một công chức tầm thường dù có bằng đại học. So với một bác sĩ, ông thua kém rất xa. Nhưng tình yêu không thể căn cứ vào bằng cấp. Rồi theo thời gian, ông cũng khuây khỏa dần. Ông lấy vợ, một cô thư ký làm cùng sở. Gia đình thật ấm cúng, hạnh phúc. Tuy nhiên, thỉnh thoảng nhớ lại mối tình đầu đời, ông vẫn nghe lòng xót xa.
Trong khi đó, cuộc hôn nhân của bà Xuyến với viên bác sĩ trẻ không kéo dài tới một năm. Khi bà có thai được ít lâu, viên bác sĩ yêu một cô y tá xinh đẹp cùng làm trong một y viện, bỏ rơi bà. Rồi sau đó, bà trải qua thêm hai lần sang ngang nữa. Cả hai đều dang dở, người thì chết sớm, ông thì bỏ đi mất tích. Nhưng cả hai đều không có con với bà. Sau khi người chồng thứ ba bỏ đi mất tích, bà không còn tha thiết chuyện chồng con nữa. Bà ở vậy đến già, dốc lòng chăm lo cho đứa con của ông thầy thuốc bạc tình. Ðiều an ủi duy nhất của bà là thàng bé rất thương yêu mẹ nên ngoan ngoãn và chăm chỉ học hành. Rồi nó cũng trở thành bác sĩ như cha nó. .
Từ ngày bà cắt đứt với ông Hưng, hai người không còn liên lạc với nhau nữa, ông chỉ biết tin tức về bà qua mấy người bạn chung. Ðã mấy chục năm qua, nay bỗng bà ngỏ ý muốn gặp ông, làm sao không ngạc nhiên cho được. Ông phân vân nhiều ngày vừa đẻ suy tính vừa để nghe ngóng lòng mình. Ông thầm thú nhận ông chưa quên hẳn bà dù ông còn giận bà rất nhiều. Chính ông cũng không hiểu tại sao lại như vậy. Ông chợt nhớ tới hai câu thơ của Thế Lữ :
                                 Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy,
                                      “Nghìn năm hồ dễ đã ai quên”
Thế là ông quyết định ra đi, nhưng không vội vã. Ông nhờ thằng cháu nội, chuyên viên máy vi tính, kiếm mua vé máy bay trên mạng với giá thật rẻ. Rồi nửa tháng sau ông có mặt ở tiểu bang bà Xuyến cư ngụ. Sau khi nghỉ ngơi nhiều giờ trong khách sạn cho hết mệt, ông mới gọi điện thoại cho bà. Dù đã xa cách trên nửa thế kỷ ông cũng nhận ra tiếng bà ngay. Tim ông bôxng đập nhanh hơn. Làm sao mà không xúc động khi được nghe lại tiếng nói trìu mến, ngọt ngào hồi nào. Bà cũng nhận ra ông ngay nên hỏi :
“Có phải anh Hưng không ?”
Ông từ tốn đáp :
“Dạ, thưa bà, chính tôi.”
“Anh có nhận ra tiếng em không mà sao cứ kêu em bằng bà vậy ?”
Ông giữ im lặng một lát, rồi nói thêm :
“Tôi hiện ở khách sạn Oxford, đường Madison.”
Bà reo lên :
“Ô, thế thì gần nhà em lắm. Anh cho biết số phòng để em bảo cháu đến đón anh ngay…Thằng này là cháu nội của em.”
Khoảng mười lăm phút sau, ông Hưng nghe có tiếng gõ cửa. Một thanh niên trạc tuổi gần ba mươi lễ phép mời ông đi gặp bà Xuyến. Vì đã sửa soạn sẵn sàng, ông đi theo anh ta ngay. Khi hai người đã ngồi trong xe hơi, anh ta tự giới thiệu là cháu nội lớn nhất của bà Xuyến và tên là Phong. Ông Hưng liền hỏi thăm sức khỏe của bà Xuyến. Hơi ngập ngừng một chút, rồi Phong cho biết bà nội của anh chỉ hơi ốm, nhưng vẫn mạnh khỏe. Không những thế, anh còn nghe nói bà sửa sọan đi chơi xa. Ông chưa định hỏi thêm gì, xe đã chạy vào khuôn viên của một biệt thự lớn. Xe vừa ngừng lại trước cửa biệt thự, bà Xuyến liền xuất hiện. Vừa nhìn thấy bà, ông Hưng cũng nghe lòng hơi xúc động. Ðã hơn nửa thế kỷ hai người chưa gặp nhau. Ông cố giữ vẻ mặt bình thản khi bước ra khỏi xe. Bà Xuyến mừng rỡ thốt kêu lớn :
“Anh Hưng !”
Ông chậm rãi bước đến gần bà, lịch sự chào :
“Thưa bà !”
Bà cười tươi, có giọng trách :
“Bà bà, tôi tôi hoài à !”
Ông theo bà vào một phòng khách lớn, trang trí toàn lọai bàn ghế đắt tiền. Ông ngồi vào chiếc ghế dài theo sự chỉ định của bà, giữ im lặng, chờ đợi. Bà ngồi cùng ghế với ông, chỉ cách ông một quãng ngắn. Bà nhìn ông đăm đăm, rồi hỏi :
“Anh có biết em mời anh đến đây có việc gì không ?”
Ông chỉ lắc đầu mà không nói. Bà mỉm cười :
“Anh hay bất cứ ai cũng không thể đóan được đâu. Ngay cả em cũng phải ngạc nhiên, nói chi người khác.”
Ông vẫn giữ im lặng, đăm đăm nhìn bà, chờ đợi. Bà mỉm cười rồi tiếp :
“Em mời anh đi hưởng tuần trăng mật vối em.”
Ông giật mình, ngồi thẳng người lên, thốt kêu :
“Bà nói chuyện gì kỳ vậy ? Ði hưởng tuần trăng mật là đi đâu ?”
Như muốn trêu chọc ông, bà có giọng vui vẽ :
“Anh làm như anh còn ngây thơ lắm. Hưởng tuần trăng mật mà cũng không hiểu. Thôi, để em giải thích cho rõ. Ngày xưa, anh với em định làm đám cưới và chúng mình dự tính sẽ đi Ðà Lạt hưởng tuần trăng mật. Nhưng rồi chuyện không thành… Mình không thực hiện được ý định ấy. Bây giờ…về cuối đời, em muốn mình làm lại…”
Ông có giọng trách :
“Không thành là tự bà…”
Bà ngắt lời ông :
“Thì em đâu có chối là không phải lỗi em. Bây giờ mình già cả rồi, em muốn chuộc cái lỗi đó nên đề nghị anh với em về Ðà Lạt một chuyến.”
“Bà có điên không mà có ý nghĩ ngông cuồng ấy ? Tôi chẳng muốn đi đâu hết. Cũng chẳng ham trăng với mật. Tôi với bà đã hết tình hết nghĩa từ hơn nửa thế kỷ nay rồi. Bà nên rủ người khác đi cùng cho vui.”
Lời từ chối tàn nhẫn của ông khiến bà xịu mặt buồn. Thấy bà buồn, ông cũng thoáng nghe lòng bất nhẫn. Bà rụt rè hỏi nhỏ :
“Như vậy là anh thực sự hết yêu em rồi sao ?”
Ông không thể trả lời dứt khoát câu hỏi của bà. Giận thì có giận, nhưng hết yêu thì chưa chắc. Thấy ông im lặng, bà năn nỉ :
“Nếu còn yêu em, xin anh chiều em lần chót.”
“Tôi già rồi, chẳng muốn đi đâu hết, nhất là về Việt Nam. Chuyến đi dài cả mấy chục tiếng, làm sao tôi chịu nổi. Tôi cũng đã có nhiều thứ bệnh của người già, đâu còn khỏe như ngày xưa.”
Ngẫm nghĩ giây lát, bà ngập ngừng :
”Hay…hay…mình đi một nơi trong nước Mỹ…chẳng hạn Las Vegas…Anh nghĩ
sao ? Hoặc tùy anh, muốn đi đâu, cứ cho em biết, em sẽ đi theo anh.”
            Ông đáp ngay, không một giây lưỡng lự :
            “Tôi chả thích đi đâu hết. Tại sao bà cứ bày vẽ chuyện trăng mật, đi đây, đi đó ?”             Bà khẽ thở dài :
            “Em…em muốn chuộc cái lỗi ngày xưa…em đã làm anh buồn, khổ…”
            Ông nhún vai :
            “Ðó là chuyện ngày xưa, bây giờ thì khác rồi.  Nói cho ngay, hồi đó, tôi cũng buồn, cũng khổ đau một thời gian. Nhưng rồi tôi hiểu ra rằng vợ chồng phải có duyên hay nợ. Tôi với bà không duyên không nợ thì chỉ vui với nhau một thời gian ngắn, ri phải chia tay.”
            Bà nhìn ông bằng đôi mắt trìu mến :
            “Anh là người rộng lượng nên dễ tha thứ.”
            “Chẳng tha thứ thì cũng chẳng làm gì được bà.          
            “Bây giờ anh đã hết giận, hết ghét em rồi thì nên đi chơi với em một chuyến…Bỏ chuyện tuần trăng mật đi, vì không còn hợp thời nữa…Ði một chuyến để dối già vậy.”
            Ông phì cười :
            “Hết trăng mật đến dối già. Sao bà có nhiều sáng kiến vậy ?”
            Bà cười theo :
            “Anh chịu rồi, phải không ?”
            Ông tỏ vẻ ngạc nhiên :
            “Tôi chịu bao giờ ?”
            “Em tưởng anh khen em có nhiều sáng kiến là anh chịu đi chơi với em.?”
            Ngẫm nghĩ giây lát, ông gật đầu :
            “Ừ, thì tôi chịu đấy. Nào bà muốn đi đâu ? Chỉ trong nước Mỹ thôi đó.”
            Bà liền nở nụ cười đắc thắng :
            “Em biết mà, rồi thế nào anh cũng chiều em. Như em đã đề nghị, mình đi Las Vegas đánh bạc nhé.”
            “Cũng được. Ðể tôi đi hỏi vé máy bay ngay.”
            “Ðiều đó anh khỏi lo. Em xin bao hết. Em sẽ bảo thằng cháu nội của em làm tất cả mọi việc cần thiết, từ mua vé máy bay đến giữ phòng khách sạn. Thằng này thương em nhất trong các cháu của em.”
            Ông mỉm cười :
            “Vậy cũng được. Ðã đồng ý với bà thì bà muốn gì cũng xin chiêu hết.”
            Bà rụt rè hỏi :
            “”Anh muốn ở…cùng phòng vói em…hay riêng phòng ?”
            Ông liền dẫy nẩy :
            “Già rồi mà còn bày đặt ngủ chung phòng. Người ta cười cho chết”
            “Mình chung phòng chớ đâu có…chung giường mà sợ người ta cười.”
            “Hừ, ai biết là mình không chung giường, chỉ thấy mình vô chung phòng là người ta đã nghi ngay. Thôi, bà đừng có bày đặt lôi thôi nữa. Tôi đi với bà cũng đã là một chuyện kỳ cục rồi. Ðáng lẽ tôi không nên gặp bà mới phải.”
            Thấy bà không nói gì nữa, ông từ biệt để về khách sạn sửa soạn. Ông tính thầm nếu có nhanh cũng phải một tuần nữa mới lên đường đi Las Vegas. Trong một tuần đó ông sẽ làm gì ? Bay về nhà ở một tiểu bang khác xa xôi hay cứ chờ đợi ở đây cho tốn tiền khách sạn ? Nhưng mối lo của ông không kéo dài vì chỉ hơn một tiếng đòng hồ sau, người cháu nội của bà Xuyến đã gọi dây nói báo tin sáng mai sẽ lên đường. Ông ngạc nhiên hỏi :
            “Sáng mai ? Sao lẹ quá vậy ?”
            Người cháu ôn tồn giải thích :
            “Thưa ông, nếu mình chịu tốn tiền mua vé hạng business thì lúc nào cũng có ngay, không phải chờ đợi.”
            Thế là trưa hôm sau ông Hưng và bà Xuyến đã có mặt ở Las Vegas để…hưởng tuần trăng mật cuối đời. Phong cũng đi theo để săn sóc bà nội. Ông Hưng không có máu mê cờ bạc mà cũng không biết gì nhiều vê các cách đánh bạc, trừ môn kéo máy, nên chỉ đi xem cho biết. Trong khi đó, bà Xuyến tỏ ra rất thành thạo. Bà thích nhất môn đánh bài. Ông Hưng biết là bài Black Jack do Phong giải thích. Ngòai những lúc chơi bài, bà cũng cùng ông đi xem các màn trình diễn âm nhạc, ảo thuật hoặc đi ăn ở những tiệm đặc biệt. Thế rồi một tuần cũng qua đi. Ông thở phào khi được bay về nhà mình. Nhưng ông chưa kịp nghỉ ngơi thì Phong đã gọi điẹn thoại báo tin bà sắp chết. Ông giật mình, tưởng nghe lầm, vội hỏi lại :
            “Cháu nói sao ? Bà cháu còn mạnh khỏe, mới đi chơi Las Vegas mà ?”
            “Dạ, thưa ông, bà cháu bị ung thư, đã tới giai đoạn cuối cùng. Bỗng bà khỏe lại một thời gian ngắn, như ngọn đèn sắp tắt chợt lóe lên. Mà cũng nhờ thuốc bồi dưỡng tạm thời của ba cháu nên chịu đựng được một thời gian ngắn. Bây giờ thì chỉ…có thể tính từng ngày…Bà cháu muốn được gặp ông trong những giây phút cuối cùng.”
            Tất nhiên ông Hưng không thể từ chối. Ông lại hấp tấp ra đi một lần nữa.
            Bà Xuyến thoi thóp nằm trên giường, thấy ông Hưng đi vào thì đôi mắt sáng hẳn lên và có tia vui mừng. Dù cuộc đời bà nhiều biến đổi theo cám dỗ của lợi danh, mối tình bà dành cho ông Hưng vẫn là mối tình bất diệt. Hình bóng của người tình đầu đời không bao giờ phai nhòa trong trái tim bà. Trong khi đó, ông Hưng, dù không phải là kẻ bạc tình, đã quên bà ngay khi ông lập gia đình với một người đàn bà khác. Ông quan niệm rằng khi đã có gia đình, phải hết lòng lo cho gia đình. Vì thế, hình bóng người tình bội bạc biến đi nhanh chóng trong tâm tưởng của ông. Thỉnh thoảng chợt nhớ tới bà Xuyến, ông coi bà chỉ là một hình bóng của dĩ vãng, không đáng quan tâm nhiều. Mãi cho đến khi Phong bỗng liên lạc với ông, ông mới biết bà còn sống và cũng ở Mỹ. Lòng ông đã hoàn toàn nguội lạnh nên hững hờ với lời đề nghị của anh ta. Rồi ông suy tính mãi mới quyết định đi thăm bà.
            Bây giờ thấy bà nằm thoi thóp trên giường trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời, ông cũng nghe nhói trong tim. Bà run rẩy đưa bàn tay gầy guộc về phía ông như muốn bắt tay, ông vội vã nắm lấy bàn tay ấy. Một luồng giá lạnh làm tê buốt tay ông. Hình bóng tử thần thấp thoáng đâu đây làm ông khẽ rùng mình, đồng thời ông cũng nghe nhói trong tim. Hồi bà Hưng qua đời, cách đây mấy năm, ông cũng có cảm giác này, cảm giác của cuộc tử biệt. Ông quỳ xuống cạnh giường bà Xuyến, úp mặt vào bàn tay lạnh giá ấy. Bà thều thào nói :
            “Cảm ơn anh…đã đến…với em vào...giờ phút…cuối cùng này…”
            Tiếng bà nhỏ như một hơi thở nghẹn ngào, nhưng mặt bà tươi vui với vẻ mãn nguyện. Ông chưa kịp nói gì, bà đã rút tay về, rồi cả chân lẫn tay bà co giật mấy cái. Khi bà nằm im thì mấy giọt nước mắt già nua của ông bỗng trào ra…
                                                                                                   TQK
                                                                                             28/12/2010