Monday, October 14, 2013

Buồn vui nghề dạy học


HÀO HOA CỦA KIM TRỌNG
                     Tạ Quang Khôi

V
ào giữa niên học 1962-63, tôi được đổi từ Vĩnh Long về Mỹ Tho. Vì đổi vào giữa năm như vậy, nhà trường không thể xếp đủ giờ cho tôi…hành nghề. Ông giám học phải cắt xén bớt một số giờ của các giáo sư khác để tôi không phải “ngồi chơi xơi nước” mà cuối tháng vẫn cứ được nhà nước trả lương. Vì tôi là một giáo sư mới, nhà trường chưa biết khả năng của tôi nên không thể cho tôi phụ trách những lớp đi thi. Tôi ăn lương giáo sư đệ nhị cấp, không thể cho tôi dạy những lớp nhỏ. Sau khi tính toán, đắn đo, ông giám học cho tôi vào mấy lớp đệ Tam. Cách giải quyết đó vừa là một biện pháp ưu đãi (vì ông là bạn đồng môn của tôi ở sư phạm) vừa là một cách thử tay nghề. Ai cũng biết học sinh lớp đệ Tam quậy nhất trong bảy lớp trung học. Các em mới ra khỏi bậc đệ nhất cấp nên vẫn thuộc loại ”ăn chưa no, lo chưa tới”, lại chưa phải lo thi. Nhiều em nghịch ngầm và thường che chở lẫn nhau nên giáo sư khó tìm ra thủ phạm.
Năm ấy, trong những lớp đệ Tam do tôi phụ trách, có một lớp văn chương. Học văn chương thì cũng quậy theo văn chương. Nói cho ngay, dùng chữ “quậy” không đúng với các em trong lớp này. Các em có những câu hỏi về văn chương làm giáo sư cũng khó trả lời.
Một hôm, tôi giảng Kiều, đoạn Kim Trọng lấy được chiếc thoa cài tóc của Thúy Kiều, một học sinh có ý kiến :
- Thưa thầy, theo em, Kim Trọng là một tên ăn cắp, đã với tay sang nhà hàng
xóm lấy đồ.
            Cả lớp, kể cả tôi, đều ngạc nhiên về ý kiến mới lạ này. Tôi hỏi tại sao em lại nói như vậy, em bình tĩnh đáp :
- Thưa thầy, em xin đọc lại đoạn văn này để cả lớp cùng nhận định.
                                      Nhẫn từ quán khách lân la,
                                       Tuần trăng thấm thoắt nay đà thêm hai.
                                             Cách tường phải buổi êm trời,
                                       Dưới đào dường có bóng người thướt tha.
                                             Buông cầm, xốc áo, vội ra,
                                       Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh.
                                             Lần theo tường gấm dạo quanh,
                                      Trên đào nhác thấy một cành kim thoa.
                                             Giơ tay, với lấy về nhà :
                                     “Này trong khuê các đâu mà đến đây ?...”
Như vậy, rõ ràng là Kim Trọng thò tay sang nhà hàng xóm lấy trộm kim thoa.
            Cả lớp im lặng như tờ, chính tôi cũng chưa biết nói sao. Ngưng một chút, em tiếp :
- Thưa thầy, phải giơ tay, với mới tới thì chắc chắn chiếc thoa phải ở sâu trong
vườn nhà Kiều, chớ không ở sát bờ rào. Hàng xóm nhà em có một cây mận gần bờ rào. Nếu cành mận xòa hẳn sang vườn nhà em, em mới có quyền hái trái mà không bị tiếng là ăn trộm. Em mà bắt chước Kim Trọng với tay sang nhà hàng xóm lấy đồ, chắc chắn sẽ bị đánh què tay.
Ngay lúc đó, tôi không biết nói sao, vì lý lẽ của em học sinh đúng quá. Ðưa tay sâu vào vườn nhà người khác để lấy đồ vật không phải của mình chắc chắn là một kẻ ăn trộm. Nếu, vì một lý do nào đó, đồ của mình rớt vào vườn nhà người ta, muốn lấy lại, mình cũng phải xin phép chủ nhà đàng hoàng, không thể tự tiện thò tay vào lấy. Học sinh trong lớp bắt đầu xôn xao bàn tán. Ai cũng khen ý kiến của bạn là đúng, là độc đáo. Một em học sinh khác bỗng nói lớn :
- Vậy mà cứ khen là “vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa” Hào hoa mà đi
ăn trộm đồ nhà hàng xóm.
Thế là cả lớp cười ồ lên. Tôi cũng đành cười theo. Em học sinh vừa có ý kiến
độc đáo lại nói thêm :
- Thưa thầy, đã không biết mắc cở, sáng hôm sau Kim Trọng còn bắt bí Thúy
Kiều phải thề thốt nữa. Như vậy là tống tình chớ không phải tỏ tình.
Cả lớp lại cười.
Tối hôm đó, tôi tìm trong bản Kiều dịch sang tiếng Pháp xem những chữ “giơ tay
với lấy” đã được dịch như thế nào. Theo bản dịch của giáo sư Nguyễn Cửu Chấn thì bốn chữ đó được dịch như sau : “Etendant le bras, il prit l’objet et le ramenant chez lui.» Ðã hơn bốn chục năm qua, tôi không dám chắc câu dịch vừa kể hoàn toàn đúng 100%, nhưng nếu sai cũng không sai bao nhiêu. Như vậy là rõ ràng Kim Trọng đã đưa tay sâu vào vườn nhà người khác, không phải như chàng nói với Kiều vào sáng hôm sau : «Thoa này bắt được hư không, Biết đâu Hợp phố mà mong châu về.» (Bắt được hư không nghĩa là vô tình mà nhặt được). Sau này, khi đã sang Mỹ, nhớ lại chuyện cũ, tôi xem bản tiếng Anh của giáo sư Huỳnh Sanh Thông : «He reached for it and took it home.”.
Em học sinh có ý kiến độc đáo này sau khi đậu tú tái, lên Saigon học Triết ở đại học Văn khoa. Vì bận học, em ít liên lạc với tôi, rồi dần dần biến luôn. Nhưng tôi tin em đã trở thành một giáo sư Triết xuất sắc.
    
                           CƠN ÐẰNG TÂY
                             .
Trong một lớp học, thầy giảng về ca dao, tục ngữ, nói tới kinh nghiệm của người nông dân trong việc theo dõi thời tiết để canh tác.. Nào là “Mống đông, vồng tây, chẳng mưa dây cũng gió giật”, nào là “cơn đằng Ðông vừa trông vừa chạy, cơn đằng Nam vừa làm vừa chơi”…Một nữ sinh ngồi bàn đầu hỏi :”Thế còn cơn đằng Bắc và đằng Tây thì sao ?” Thầy chưa kịp trả lời vì trong ca dao, tục ngữ không nói tới cơn mưa ở hai phương đó, một nam sinh ngồi ở cuối lớp, tục gọi là “xóm nhà lá” vì nơi đây quy tụ phần lớn các học sinh nghịch ngợm, phá phách, bỗng nói lớn :”Thì vác chầy mà lộn chớ còn sao nữa.” Thoạt mới nghe, cả lớp không có phản ứng gì, thầy giáo cũng ngơ ngác không hiểu sao phải vác chầy mà lộn. Nhưng chỉ nửa phút sau, một nữ sinh khác mắng nho nhỏ :” Ðồ quỷ ! Chỉ ăn nói bậy bạ.” Thế là cả lớp hiểu ra, liền cười phá lên như một cái chợ vỡ. Thầy giáo cũng cười theo dù đã cố nhịn. Thầy cũng thầm phục cậu học sinh “nhỏ tuồi mà tài cao” Thầy cho rằng sự nghiệp văn chương trào phúng  của cậu chắc phải chói lọi lắm, nếu cậu lao vào “trường văn trận bút”. Chỉ tiếc rằng sau đó thầy hỏi “quý danh phương tánh” của cậu mà không ai chịu tiết lộ.
                                    
                               Cây trúc xinh

Cũng trong giờ giảng về ca dao, tục ngữ, thầy đề cập tới những lời tình tứ của con trai dành cho con gái, như :
                                              Trúc xinh, trúc mọc đầu đình,
                                              Em xinh, em đứng một mình cũng xinh
hoặc
                                                         Trúc xinh trúc mọc bờ ao,
                                                          Em xinh, em đứng chỗ nào cũng xinh.  
            Một vài nam sinh xì xào bàn tán :”Các cụ nhà ta nịnh đầm cũng một cây xanh rờn. Ngày nay đố có ai theo kịp.” Sau tiếng xì xào liền có những tiếng cười khúc khích. Thầy không phản ứng gì vì cho là câu nói đùa vô hại. Thầy định đọc thêm mấy câu ca dao tình tứ nữa , bỗng ở cuối lớp, một nam sinh gọi tên một nữ sinh thật lớn :
- Ngọc Hoa ơi ! Trúc xinh trúc mọc trong vườn, Hoa xinh Hoa có cởi truồng
 cũng xinh.
            Tức thí cả lớp cười phá lên.  Trò Ngọc Hoa ngồi ngay bàn đầu mặt đỏ ửng, nhưng cũng cười theo cả lớp. Thấy cũng không nhịn được cười và thầm phục tên học trò nhanh trí đã “phóng tác” cấp thời  để cả lớp cùng vui..

                              Tình không đợi tuổi
Tôi đang tìm cách đổi giờ cho một giáo sư vì ông mới được một trường tư mời dạy mà thời khóa biểu của trường tư lại trùng với trường công mấy giờ thì cửa phòng bật mở. Một nữ giáo sư hầm hầm bước vào phòng mà không báo trước. Tôi vội ngửng lên, nhận ngay ra vẻ tức tôi của bà. Mặt đỏ ửng và hai mắt rưng rưng. Bà là một nữ giáo sư trẻ mới đổi về trường đầu niên khóa này. Bà thuộc loại xinh xắn, duyên dáng, lại mới có con đầu lòng. Nhiều nam giáo sư trong trường còn độc thân cứ tiếc ngẩn tiếc ngơ vì đã không được gặp bà khi bà chưa có chồng. Một ông dạy quốc văn mỗi khi được gặp cô trong phòng giáo sư lại ông ổng ngâm bài ca dao “Trèo lên cây bưởi hái hoa…”  Bà bước thẳng đến bàn giấy của tôi, ném lên mặt bàn một tờ giấy gấp tư, rồi nói :
”Ông giám học xem thế này có láo không ?”
Tôi thong thả mở ra đọc. Ðó là một bức thư tình ngắn ngủi.
            “Lệ Hương yêu mến,
“Anh yêu em tha thiết. Hãy bỏ chồng để lấy anh.”
            Nguyện Văn Thưởng.”
Lệ Hương là tên cô giáo, còn Nguyễn Văn Thưởng thì tôi không biết là ai. Chỉ đoán lờ mờ là một tên học trò nào đó vì tuồng chữ còn non nớt. Tôi hỏi bà Hương ai đã gửi cho bà thư tỏ tình này ?  Bà cho biết đó một học sinh lớp Tám (trước kia là đệ ngũ). Tôi ngạc nhiên vì học sinh lớp Tám chỉ mới 13, 14 tuổi. Tuổi này cònh ham chơi, đâu đã biết yêu với thương. Không những thế, nó còn dám viết thư tỏ tình với cô giáo của mình. Tôi vội mở tủ tìm học bạ của nó để tìm hiểu. Nó thuộc loại học trò trung bình. Tôi ghi tên cha mẹ và địa chỉ của nó và quyết định phải giải quyết chuyện này nhanh chóng vì nếu còn tên học trò mất dạy này thì bà Lệ Hương không thể vào lớp đó được. Tôi tạm cho bà nghỉ dạy lớp này một tuần. Giờ của bà sẽ có giám thị vào giữ trật tự. Tôi viết thư mời bố mẹ nó đến gặp tôi gấp. Khi bố nó tới, tôi đưa lá thư của con ông ta viết cho bà Lệ Hương để ông hiểu rõ vấn đề mà không cần nói lôi thôi dài dòng. Đọc xong, ong tỏ vẻ ngượng ngùng, rồi ấp úng hỏi :
“Thầy tính sao ?”
Tôi đáp :
“Đó là lý do tôi mời ông đến đây.”
Suy nghĩ một lúc, ông khẽ thở dài nói :
“Tôi đành xin chuyển trường cho nó.”
Tôi đồng ý ngay :
“Đó là một biện pháp tốt đẹp.”

                                          X X
                                            X
Cuộc đời dạy học của tôi nhiều vui hơn buồn dù tôi đã từng bị học sinh thân cộng sách động biểu tình, bãi khóa trên sân trường để phản đối tôi. Ngoài những tên học trò than cộng ấy, tôi được nhiều học sinh quý mến mà cho đến nay, sau 40 năm rời khỏi trường vẫn liên lạc thường xuyên với tôi qua điện thư hoặc thư gữi bưu điện.
                                                                                           Tạ Quang Khôi

                                                                

Thursday, October 3, 2013

NIÊM VUI CUỐI ÐỜI
               Tạ Quang Khôi

Ô
ng Cảnh đã yêu Nhạn suốt cả cuộc đời. Trong tuyệt vọng và thầm kín. Nhạn là con gái đầu lòng của một người bạn thân. Người bạn này còn kém cả tuổi ông. Hai người cùng học một lớp với nhau nhiều năm. Khi người bạn lấy vợ, ông là một trong hai người rể phụ. Nhưng chính ông thì chưa bao giờ làm chú rể. Nhiều thầy bói đã cho biết số ông là số “cô độc cô quả”. Thật ra, ông cũng đã có một vài lần hỏi vợ, nhưng lần nào cũng dở dang và đổ vỡ. Có đám thì sắp đến ngày cười bỗng nhà gái từ hôn với lý do không rõ ràng. Có đám thì chính ông từ hôn vì bất ngờ trông thấy vợ chưa cưới đi chơi với một người đàn ông lạ mặt. Có điều đáng nói là dù đi hỏi vợ ông chưa hề thực tâm yêu một người con gái nào. Ông thấy bạn bè lần lượt có gia đình thì cũng muốn có một người vợ để đi về có nhau. Ông cũng nghĩ tới lời khuyên của một câu tục ngữ Pháp : ”L’appétit vient en mangeant”, nghĩa là cứ lấy vợ rồi sẽ yêu vợ.
            Tình yêu đến với ông rất muộn khi ông đã đi tới nửa đường của tuổi “bất hoặc”. Người yêu đầu tiên của ông lại chính là người con gái lớn của ông Thiện, người bạn học cũ của ông. Lúc đó Nhạn mới 15 cái xuân hồng. Như vậy, ông hơn nàng đúng 30 tuổi. Vì yêu một cách quá bất thường và mù quáng, ông giấu kín mối tình đó tận đáy lòng. Nhạn là một thiếu nữ xinh đẹp, có thân hình nẩy nỡ đều đặn sớm, nên có nhiều cậu trai theo đuổi ngay từ khi vừa tới tuổi dậy thì. Thấy ong bướm dập dìu như vậy, ông Cảnh buồn và lo lắm. Có lần ông đến thăm ông Thiện, thấy Nhạn thân mật cười nói với bạn trai, ông thầm ghen, nhưng biết mình không thể làm gì được, ông bỏ ra về một cách đột ngột, không lý do, khiến ông Thiện rất ngạc nhiên.
            Vì xinh đẹp, duyên dáng, có nhiều người yêu, Nhạn lơ là việc học hành nên chưa học hết bậc trung học đã lấy chồng năm 18 tuổi. Chồng nàng là con trai một nhà buôn giầu, cũng học hành dở dang như nàng. Sở dĩ nàng chọn anh chàng này vì anh đã chịu khó bỏ nhiều tiền ra mua những món quà đắt tiền mà nàng thích để tặng nàng. Ông bà Thiện không ưng chàng rể nhưng cũng phải bằng lòng. Thật ra ông bà đã ngầm chấm một cậu sinh viên trường thuốc cho con gái.
            Thấy Nhạn lấy chồng, ông Cảnh buồn lắm, nhưng biết thân biết phận mình, chả dám hở môi ra nói gì hết, dù có lúc ông Thiện ngỏ ý không ưng cuộc hôn nhân này, cho rằng Nhạn còn trẻ người non dạ, chưa biết chọn người xứng đáng.
            Hôm cưới Nhạn, ông Cảnh không dự, chỉ gửi mừng nàng một món quà đắt giá. Nhưng cuộc hôn nhân này không bền, chưa đầy hai năm, vợ chồng nàng đã chia tay. Nàng nói với bố mẹ là chồng nàng chưa trưởng thành. Con nhà giầu được nuông chiều quá đáng nên không hiểu gì về cuộc đời thực tế. Không những thế, bà mẹ chồng lại khó khăn, nghiệ ngã rất mực, bắt nàng vào khuôn vào phép đến cực khổ. Kết quả của cuộc hôn nhân là một bé trai mấy tháng tuổi. Bà mẹ chồng muốn bắt đứa bé vì nó là cháu đích tôn, nhưng nàng không chịu, bế con về với cha mẹ.
            Thấy Nhạn bỏ chồng, ông Cảnh mừng thầm và lại nuôi hy vọng.  Ông sẵn sàng nhận đứa bé làm con và ông tự biết ông đủ khả năng nuôi nó cho đến khôn lớn. Ông tính hôm nào thuận tiện sẽ ngỏ lời thẳng với Nhạn. Bây giờ nàng không còn là gái tân hơ hớ nữa. Ông tin rằng lần này ông có thể được nàng để mắt tới.  Nhưng tiếc rằng ông chưa có dịp nào thuận tiện ngỏ lời thì nàng đã lại…bước thêm bước nữa. Người chồng mới của nàng cũng còn trẻ, chưa hề lấy vợ. Anh ta là một sĩ quan trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Cuộc hôn nhân này còn ngắn ngủi hơn cuộc hôn nhân trước. Chưa đầy sáu tháng sau ngày cưới, anh đã vội vã…đền nợ nước. Thế là nàng lại góa bụa, ông lại hy vọng. Nhưng muốn tỏ tình với nàng không phải là một chuyện dễ dàng. Làm sao ông có thể mở miệng nói với con gái của bạn là ông yêu nó, muốn cưới nó làm vợ. Ông cố gắng tìm lời lẽ nào cho hợp tình bác cháu nghe khả dĩ lọt tai.
Ông lần lữa mãi vì chưa tìm ra lời mà cũng không dám hỏi ý kiến ai thì Nhạn lại ôm cầm bước sang thuyền thứ ba. Chủ thuyền này là một luật sư mới xong thời kỳ tập sự. Như vậy anh là người có thế giá cao, ít nhất so với ông Cảnh, một nhà giáo tầm thường. Lần này thì ông vừa thất vọng vừa giận nàng. Hừ, người gì mà lấy chồng lẹ như thay áo lót vậy, ông thầm trách nàng.
            Nhạn sống với người chồng thứ ba này khá lâu, nhưng không có con. Nàng khoe với bố mẹ là nàng được chồng rất chiều. Vì thế, nàng không thích có con, chàng luật sư cũng bằng lòng. Không những thế, chàng còn mua thuốc ngừa thai cho vợ. Nhưng người xưa đã nói :”Hồng nhan đa truân”, má hồng phận bạc. Vì thế, Nhạn cũng không thoát khỏi định luật đó. Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, vơ chồng nàng vượt biên tìm tự do. Ghe bị hư máy giữa biển, lênh đênh trôi dạt theo sóng gió nhiều ngày. Thuyền nhân bị chết đói gần hết trước khi được một tầu buôn của Na Uy vớt. Trong số rất ít người sống sót có Nhạn. Khi được cứu tỉnh, nàng không hiểu tại sao nàng lại không chết cùng với chồng con. Số người sống sót này được đưa tới Singapore, rồi được định cư ở Mỹ.  Nhạn bị bệnh tâm thần hơn một năm trời mới khỏi.
Khi đã trở lại bình thường, nàng vào học trường đại học cộng đồng để vừa học Anh văn vừa học lấy một nghề. Trong thời gian đi học, nàng cũng phải đi làm để tạm sống. Cả ở trường lẫn nơi làm việc có nhiều đàn ông theo đuổi, nhưng nàng làm ngơ hết. Nàng chán chuyện chồng con rồi. Nàng nghĩ rằng trên cõi đời này không ai có thể bằng được người chồng luật sư của nàng. Tốt nhất là chẳng tơ vương làm chi cho nặng nợ.
Sau hai năm học, nàng có một nghề để có thể sống vững vàng. Nàng xin được một việc làm ở một sở Mỹ, lương cũng đủ sống. Khi đã tương đối ổn định, nàng lo giấy tờ bảo lãnh cho bố mẹ sang đoàn tụ với nàng. Ông bà Thiện được sang Mỹ sau hai năm chờ đợi. Trong khi đó, ông Cảnh cũng sang đoàn tụ với gia đình người em trai, nhưng phải chờ đợi tới bảy năm. Sang tới Mỹ, ông vội liên lạc ngay với ông bà Thiện, rồi thu xếp chuyển sang ở gần bạn. Ông chỉ có một thân một mình nên làm gì cũng sống được, ở thì thuê lại một căn phòng nhà người ta cũng xong. Ðiều cốt yếu là ông được ở gần Nhạn, khi nàng lại độc thân. Thật ra ở gần hay ở xa, tình trạng cũng chẳng thay đổi gì, vì ông có bao giờ dám tỏ tình với nàng. Mỗi khi gặp nhau, nàng bao giờ cũng cung kính “bác bác cháu cháu” khiến ông ngại ngùng.
Trong khi đó, Nhạn vẫn có nhiều người theo đuổi, cả Mỹ lẫn Việt. Nhưng nàng vẫn quyết tâm ở một mình cho…nhẹ nợ. Vết thương cũ vẫn chưa lành trong tâm hồn nàng. Thỉnh thoảng, về đêm nàng vẫn khóc thương thằng con chết yểu.
Tháng ngày êm ả trôi, rồi ông Cảnh đến tuổi về hưu khi Nhạn mới 35, cái tuổi đẹp lộng lẫy của một thiếu phụ có nhan sắc. Soi gương thấy mình già, mặt mũi nhăn nheo, tóc đã nhiều muối hơn tiêu, ông biết mình không còn hy vọng gì nữa, đành cố quên đi hình bóng người đàn bà ông ấp ủ suốt hai chục năm trời. Mấy năm sau, ông Thiện, rồi bà Thiện cũng vể hưu. Hai ông bà từ ngày sang Mỹ vẫn ở chung với con gái nên để dành được khá nhiều tiền. Còn ông Cảnh cũng có cuộc sống thoải mái hơn khi ông được nhận vào một khu nhà dành cho người già, được nhà nước giúp đỡ
Rảnh rỗi, ông bà Thiện thường cùng nhau đi chơi xa. Trong một chuyến đi thăm một người bạn ở tiểu bang khác, lúc trở về, ông bà đã gặp tai nạn trên xa lộ. Cả hai cùng chết ngay tại chỗ. Kẻ gây tai nạn là một tài xế xe vận tải hạng nặng, đã ngủ gật để cho xe vượt làn ranh giữa sang đường ngược chiều. Công ty xe vận tải chịu mọi trách nhiệm và hãng bảo hiểm của công ty xe phải bồi thường cho Nhạn một số tiền lớn. Nhưng số tiền này cũng không sao cứu nàng khỏi cơn mê sảng. Khi nghe tin cha mẹ bị tử nạn, nàng bị xúc động quá mạnh nên té xuống đất hôn mê ngay. Từ đó, dù các bác sĩ tâm thần đã tận tình chạy chữa, nàng không sao trở lại được bình thường. Ngay cả khi được coi là tỉnh, nàng vẫn ngơ ngơ ngác ngác, lúc quên lúc nhớ.
Ông Cảnh tuy không phải là họ hàng ruột thịt nhưng cũng là người thân của gia đình, lại là người từng thâm yêu Nhạn hơn hai chục năm trời, nên tự nguyện lo cho nàng. Ông săn sóc nàng như chồng lo cho vợ. Lúc tỉnh táo, nàng gọi ông bằng bác, xưng cháu. Nhưng những lúc ấy rất hiếm. Nàng thường lẫn lộn ông với ông Thiện. Lại có nhiều khi nàng còn tưởng ông là người chồng luật sư đã chết trên biển cả. Nàng kêu ông bằng anh và xưng em. Có lúc nàng lại âu yếm ôm ghì lấy ông mà hôn tới tấp lên mặt, lên cổ. Lúc đầu ông cũng cảm thấy thích thú vì được ôm người con gái mà ông yêu thầm trộm nhớ mấy chục năm trời. Nhưng những lần sau, ông không còn cảm giác gì nữa vì người đàn bà mê sảng ấy đang yêu một người khác, không phải là ông. Rồi ông trở nên bực mình. Dần dần tình yêu ông dành cho Nhạn phai nhạt. Ông không còn thấy thích thú được ôm nàng trong vòng tay nữa. Ông đứng im lặng, trơ như đá, để mặc nàng âu yếm, vuốt ve, hôn hít và gọi tên người chồng đã khuất.
Thế rồi bỗng một hôm nàng đòi “chồng” vào giường ngủ với nàng. Ông Cảnh sững sờ trước đòi hỏi này. Ông thầm tự hỏi ông có nên chiều nàng không ? Nếu ông từ chối, bệnh của nàng có nàng hơn không ? Từ lâu ông vẫn mơ ước được ngủ với nàng, với một cô Nhạn xinh xắn, hấp dẫn, tỉnh táo, không phải một người bệnh đang trong cơn mê sảng. Ngủ với nàng lúc này có phạm tội lợi dụng một người bệnh hoạn không ? Thật là một điều khó nghĩ cho ông.
Ngoài nỗi lo lắng trên, ông còn sợ trong khi hai người đang ân ái nàng bỗng tỉnh lại, nhận ra ông không phải là người chồng luật sư của nàng thì phản ứng của nàng sẽ ra sao ? Bệnh nàng có nặng hơn vì tức giận tưởng ông lợi dụng nàng trong cơn mê không ? Ðây là một hoàn cảnh vô cùng tế nhị và khó khăn vì bệnh tâm thần không phải là một bệnh dễ chữa như các bệnh khác. Ông đành phải tìm cách trì hoãn, nói thác rằng ông đang bệnh,không thể ân ái với nàng ngay bây giờ được. Rồi ông đưa nàng vào giường dỗ cho nàng ngủ. Nhìn người đàn bà một thời ông yêu tha thiết nay đã héo mòn vì bệnh tật ông cũng không còn thấy ham muốn nữa, chỉ xót thương thôi. Sau đó, ông vội gọi cho bác sĩ đang điều trị cho nàng để trình bày sự việc và hỏi cách đối phó. Nhưng không may vào dịp đó, bà bác sĩ điều trị cho Nhạn nghỉ hàng năm nên đã đi vắng xa.
Bỗng, vào một đêm, ông đang ngủ trong phòng riêng, Nhạn vào nằm cạnh ông và đánh thức ông dậy. Ông tỉnh ngủ ngay vì thấy một thân thể trần truồng bên cạnh. Ông chồm dậy và định lao ra khỏi giường. Nhạn ôm ghì lấy ông và âu yếm gọi tên người chồng luật sư. Ông muốn gỡ nàng ra mà không được vì mỗi lúc vòng tay nàng xiết chặt hơn. Khi đi ngủ, ông chỉ mặc có một chiếc áo lá và một quần xà lỏn nên bị nàng lột ra một cách dễ dàng, nhanh chóng. Ông không ngờ lúc ấy nàng mạnh như vậy. Biết mình đã lớn tuổi, yếu hơn người đàn bà đang tuổi hồi xuân và bất bình thường nên không thể chống cự, trốn tránh được nữa, đành nằm yên…
Chuyện lầm lẫn còn xảy ra nhiều lần nữa. Chính ông cũng thấy thích thú. Ông nghiệm ra rằng sự lầm lẫn dường như cũng có ảnh hưởng tốt cho bệnh tâm thần của Nhạn. Nàng có vẻ tỉnh dần ra. Nhiều việc nàng đã có thể tự làm lấy mà không hư hỏng. Ông vừa mùng vừa lo. Mừng vì thấy bệnh đã đỡ nhưng lo vì có thể nàng sẽ trách ông đã lợi dụng lúc nàng không tỉnh táo để làm bậy. Làm sao ông có thể giải thích chính nàng đã lầm lẫn ? Ông ở vào tình trạng tình ngay mà lý gian. Ông phân vân không biết nên sử trí cách nào. Tránh nàng hay vẫn cứ để nàng tiếp tục lầm lẫn ? Quan trọng nhất vẫn là vấn đề sức khỏe của nàng.
Trong khi ông phân vân thì nàng vẫn tiếp tục lầm lẫn, nhưng thưa dần đi. Hình như lúc hơi tỉnh táo nàng không lầm lẫn nữa. Chính những đêm ấy, ông lại thao thức mong nhớ nàng. Ông biết mình tự mâu thuẫn, nhưng làm sao ông dễ dàng quên được thân thể của người đàn bà mà ông mơ ước suốt cả cuộc đời. Không những thế, ông còn sợ nàng khi đã khỏi hẳn bệnh tâm thần sẽ xa lánh hay xua đuổi ông.
Từ ngày Nhạn có thể tự làm lấy nhiều việc, ông bắt đầu đi chơi loanh quanh trong khu phố gần nhà cho bớt ngột ngạt. Thoạt tiên, cuộc đi chơi chỉ ngắn năm, bảy phút. Khi thấy không có chuyện gì xảy ra cho nàng, ông kéo dài thêm để hưởng không khí ngoài trời.
Một hôm, đi chơi về, ông giật mình khi thấy Nhạn lúi húi nấu nướng trong bếp. Từ ngày nàng bị bệnh, ông không bao giờ cho nàng vào bếp vì sợ nguy hiểm cho nàng. Ông vội đến gần nàng để kiểm soát bếp lửa. Nàng đang rửa rau, ngửng lên nhoẻn miệng cười với ông. Nụ cười thật tươi, không có vẻ ngờ nghệch như lúc nàng đang bị bệnh nặng. Ông yên tâm vì không có gì đáng ngại, vừa định ra khỏi nhà bếp thì nghe tiếng nàng hỏi :
“Anh mới đi dạo mát về ?”
Ông quay lại mỉm cười với nàng, đáp :
“Thỉnh thoảng đi ra ngoài cho thoải mái.”
Nhạn lại nói :
“Anh nghỉ ngơi một chút rồi ăn cơm…Bữa nay đặc biệt.”
Nghe lời nàng, ông rất mừng vì không có một chút mê loạn nào. Ông vui vẻ hỏi lại :
“Bữa nay thì có gì đặc biệt ?”
Nhạn úp mở “
“Lát nữa anh sẽ biết.”
Rõ ràng là cách nói của một người tỉnh táo, ông càng ngạc nhiên hơn, nhìn nàng đăm đăm. Nàng cúi xuống như muốn giấu một nụ cười. Ông rất mừng khi thấy nàng đã bớt nhiều, có thể coi như đã bình thường. Nhưng ông lại thắc mắc nếu đã bình thường sao nàng vẫn lầm ông với người chồng luật sư mà gọi ông bằng anh ? Ðáng lẽ nàng phải nhận ra ông là “bác Cảnh”, bạn của cha nàng. Thật khó hiểu. Thôi thì đành chờ đến bữa cơm xem sao, ông thầm tự nhủ.
                                                 X X
                                                   X
Ông Cảnh còn ngạc nhiên hơn khi thấy Nhạn mặc áo dài ngồi cạnh bàn ăn. Không những thế, ông còn nhận ra một lớp phấn son trên mặt nàng. Lớp phấn hồng đã làm cho mặt nàng  bớt xanh xao sau nhiều ngày bệnh hoạn. Nàng trông trẻ hẳn ra và thật xinh đẹp. Thấy nàng có vẻ trịnh trọng quá, ông chợt lo vì nghĩ rằng bệnh tâm thần của nàng trở lại. Ông đứng nhìn nàng thật lâu để dò xét. Nàng vui vẻ chỉ chiếc ghế đối diện, mời :
“Anh ngồi xuống đi.”
Ông rụt rè hỏi :
“Nhạn…Nhạn thấy trong người…thế nào ?”
Nàng phì cười hỏi lại :
“Anh tưởng em bịnh hả ?”
“Vậy…vậy sao Nhạn có vẻ…bất thường quá ?”
Nàng lắc đầu :
“Có gì bất thường đâu…Hôm nay đặc biệt thì em mặc áo dài và trang điểm một chút cho hợp…tình hợp cảnh.”
Ông vẫn đứng yên một chỗ, rồi hỏi tiếp :
“Hôm nay là ngày gì mà Nhạn coi là đặc biệt ?”
Nàng tươi cười đáp :
“Ngày em khỏi bịnh.”
“Khỏi bịnh ? Bịnh gì ?”
“Từ ngày ba má em bị tai nạn, em không được bình thường, bị mê loạn. Bây giờ thì em tỉnh táo rồi. Như vậy là khỏi bịnh chớ còn gì nữa.”
Ông Cảnh vẫn nghi ngờ, hỏi thêm :
“Nhạn có biết tôi là ai không ?”
Lần này thì nàng cười phá lên :
“Có lẽ anh bất thường mới đúng. Anh là Cảnh chớ còn là ai nữa.”
Câu trả lời của nàng làm ông giật thót mình. Nàng gọi ông bằng anh ngọt xớt. Thế thì nàng đâu có mê sảng. Nàng không nhìn lầm ông ra người chồng luật sư quá cố nữa. Thấy ông vẫn đứng, nàng lại giục :
“Anh ngồi xuống đi. Em có chuyện muốn nói.”
Ông không trái lời nàng nữa, nhưng vẫn đăm đăm nhìn nàng chờ đợi. Nàng nửa e thẹn nửa vui vẻ nói :
“Anh với em, từ lâu đã thành vợ chồng, bây giờ chỉ hợp thức hóa thôi. Mình đã ăn nằm với nhau bao nhiêu lần. Có thể lúc đầu em đã lầm anh là người khác. Nhưng dần dần em tỉnh lại và nhận ra anh. Mới đầu em cũng hơi ngạc nhiên và tức giận, tưởng anh lợi dụng lúc em bịnh mà làm bậy. Sau em để ý nhận xét thấy anh không tỏ ra tha thiết với em, chỉ chiều em thôi thì em biết anh muốn chữa bịnh cho em nên em muốn gì anh cũng làm. Ðiều quan trọng là chưa bao giờ anh tìm cách ngủ với em, chính em là kẻ chủ động. Ðã có lần em giả bộ lầm anh với chồng cũ của em, anh cũng không cưỡng lại…Bây giờ anh hiểu hết rồi, có chịu làm chồng thiệt của em không ?”
Càng nghe nàng nói ông càng ngỡ ngàng. Rồi từ ngỡ ngàng ông sung sướng vô cùng. Ông nhìn nàng đắm đuối mà không nói nên lời. Nàng chỉ mấy món ăn bày trên bàn, nói :
“Ðây là tiệc mừng chúng mình chính thức xum họp với nhau. Em mới khỏi bịnh, không làm được những món đạc biệt, chỉ đơn sơ thế này thôi. Anh đừng chê, nghen.”
Ông vẫn nhìn nàng, không nói nên lời vì chưa bao giờ ông dám ngờ mình có hạnh phúc này. Nhạn xới cơm rồi gắp thức ăn vào chén cho ông, mời :
“Nào, mình bắt đầu chớ, em cũng đói rồi.”
Ông ngoan ngoãn làm theo lời nàng. Ông cho rằng nếu ông có được dự một bữa tiệc đầy sơn hào hải vị cũng không thể ngon bằng bữa cơm đơn giản hôm nay. Khi thấy Nhạn vui vẻ cười nói, ông rụt rè hỏi :
“Nhạn…Nhạn có biết tôi yêu Nhạn từ lâu lắm rồi không ?”
Nàng gật đầu :
“Em cũng biết chớ. Ngay từ hồi mới mười lăm, mười sáu, em thỉnh thoảng bắt gặp mắt anh nhìn em đắm đuối thì cũng đoán ra ngay. Những lúc đó, em lại nhủ thầm là ông già này dê thiệt, dám yêu cả con gái bạn. Chắc chắn là em nghĩ em không thể lấy một ông già như anh…Em đâu có điên.”
Nói xong, nàng phá lên cười, rồi thêm :
“Bây giờ thì đúng là mới khỏi điên nên mới chịu làm vợ anh.”
Ông Cảnh chậm rãi nói :
“Nhạn không cần phải ép mình làm điều Nhạn không thích…”
Nàng hỏi lại ngay :
“Bộ anh không còn yêu em nữa ?”
“Lúc nào tôi chả yêu Nhạn, nhưng tôi không muốn Nhạn buồn vì có một người chồng già hơn cả tuổi ba mình. Có thể Nhạn sẽ mắc cỡ với bạn bè và nhựng người chung quanh. Thấy Nhạn khỏi bịnh là tôi mừng rồi.”
Ngập ngừng một chút, nàng đánh bạo hỏi :
“Những lần mình ăn nằm với nhau, anh không thích sao ?”
“Sao lại không thích ! Nhưng tôi vẫn cho đó là một cách chữa bịnh.”
Nàng dọa :
“Bây giờ em hết bịnh cũng chỉ là hết tạm thời thôi, vẫn cần có anh bên cạnh. Nếu anh bỏ em có khi bịnh trở lại thì sao ? Anh đã yêu em suốt cả đời anh, bây giờ em yêu lại, chả lẽ anh không nhận tình của em ? Mình ở Mỹ, có phải ở Việt Nam đâu mà sợ tai tiếng. Ðưa nào cười thì hở mười cái răng, mặc xác chúng nó. Mình chỉ biết mình thôi.”
Thấy lời nàng chí tình và hợp ly, ông Cảnh đành ngồi im lặng, trong bụng vui như mở cờ. Trong đời ông đã gặp nhiều chuyện bất ngờ, nhưng chưa có bất ngờ nào thú vị như bất ngờ này. Ông nhìn nàng đắm đuối, ấp úng nói :
“Thì…thì tôi vẫn yêu Nhạn…”
Nàng liền ngắt lời ông :
“Yêu mà vẫn kêu bằng Nhạn và xưng tôi ? Bộ em không xứng đáng để anh kêu bằng em sao ?”
“Tôi…tôi…Anh sung sướng quá đến nghẹn lời.”
Nhạn tỏ vẻ bằng lòng, gật đầu :
“Từ nay em cấm anh xưng tôi với em nữa đấy.”
Ông sốt sắng nhận lời :
“Từ nay chì anh với em thôi.”
Nhạn liền cất tiếng cười vang. Ông Cảnh bỗng có cảm giác rờn rợn. Ông biết ông chưa thể hưởng hạnh phúc trọn vẹn với nàng được dù ông đã có nàng.      

                                                                                                                   Tạ Quang Khôi
                                                                                                                  (11/2008)



Thursday, July 4, 2013

MỘT VỤ ÁN MẠNG


                                                       TẠ QUANG KHÔI

T
hủ phạm là một ông già tóc bạc phơ. Lão ngồi bất động bên cạnh luật sư được chỉ định biện hộ cho lão. Đôi mắt lão nhìn thẳng phía trước, mặt lão bình thản đến trơ trơ như không có một chút tình cảm nào. Nếu ai nhìn lão lâu để nhận xét sẽ có cảm tưởng lão đã biến thành gỗ đá. Lão không chú ý đến bất cứ một ai, một vật , một cảnh nào chung quanh lão. Những tiếng động dường như cũng không lọt vào tai lão. Công tố viên đang hùng hồn kết tội lão, nhưng lão cũng chẳng thèm để tai nghe ông ta nói gì. Nếu chỉ nhìn vẻ trơ trơ của lão, không ai có thể đoán nổi lão đang nghĩ gì. Lão là một pho tượng mà một viên cảnh sát vừa đem tới đặt ngồi ở đó.
Câu trả lời duy nhất lão nói với luật sư khi ông này hỏi lão bất cứ về vấn đề nào :"Tôi đã giết con tôi." Vì luật sư là người Mỹ, lão trả lời bằng tiếng Mỹ đúng giọng. Đôi lúc lão thêm một tiếng "Vâng" trước câu trả lời đó :"Vâng, tôi đã giết con tôi." Cũng may, luật sư  là người kiên nhẫn nên không tỏ ra bất mãn trước câu trả lời duy nhất được nhắc đi nhắc lại. Thỉnh thoảng, ông cũng hơi cau mặt, nhưng bình tĩnh lại ngay.
Thật ra, bên trong cái vẻ gỗ đá đó, tình cảm lão cũng rạt rào, bồi hồi khi lão nghĩ lại những chuyện đã xẩy ra trong đời lão. Khoảng hơn mười năm về trước, khi quyết định về hưu, lão nhận định thầm trong bụng, vì lão không phải là người thích khoe khoang thành tích, rằng lão đã thành công trong đời, một thành công không lớn lắm nhưng đủ để mãn nguyện cho một người ở mức trung bình như lão. Dưới thời Pháp còn cai trị Việt Nam, cha lão chỉ là một tiểu công chức, lương vừa đủ nuôi một gia đình có sáu con trai và hai con gái.  Là con trưởng nên vừa học hết trung học lão đã phải đi làm để giúp đỡ gia đình. Lão theo nghề cha, làm công chức cho nhà nước, nhưng là loại công chức cao vì thời đó những người có bằng Tú Tài như lão không bao nhiêu. Rồi lão cũng có gia đình riêng. Theo thời gian,"sống lâu lên lão làng", khi lão sắp đến tuổi về hưu thì được giữ một chức giám đốc. Đúng vào dịp đó, miền Nam thua trận. Người con lớn của lão làm cho một cơ quan truyền thông của Mỹ đã được phép đưa cả gia đình di tản bằng máy bay. Sang Mỹ, tuổi của lão chưa phải là tuổi về hưu, nên lão phải học Anh văn để kiếm việc làm. Nhờ thông minh và có vốn Pháp văn, lão học rất nhanh và chỉ nửa năm sau lão đã có việc làm đủ để sống tự lập. Rồi, hơn mười năm làm việc, lão về hưu lúc đã ngót bảy mươi tuổi. Sau khi lão về hưu, cái may mắn bắt đầu bỏ lão. Bà vợ lão đột ngột ra đi sau một cơn bạo bệnh. Cái chết của bà vợ đã sống với lão hơn bốn chục năm trời làm lão buồn mãi, chẳng bao giờ nguôi được. Hình bóng bà vợ yêu của lão thấp thoáng đâu đó trong căn nhà nhỏ. Lão phải bán nó đi để dọn về ở một khu chúng cư . Lão trân trọng thiết lập bàn thờ tổ tiên, cha mẹ và vợ trong phòng ngủ duy nhất, lão ngủ ngoài phòng khách. Lão tưởng như vậy cũng tạm yên vì lão nghĩ rằng sự ra đi của bà vợ đã là một tai họa lớn nhất  trong cái tuổi về già này. Nhưng đôi khi, lão cũng nơm nớp lo sợ khi nhớ tới câu nói của người xưa :"Họa vô đơn chí." Rồi lão tự trấn an :"Ồ, mình già rồi, cùng lắm là chết mà thôi." Mà cái họa lại đến thật, nhưng nó không đến với lão. Nó đã đổ ập lên đầu người con trưởng của lão. Con lão cách đây hai năm đã gặp một tai nạn khủng khiếp trên một xa lộ. Sau sáu tháng nằm bệnh viện, hắn được đưa về nhà trong tình trạng nửa sống nửa chết. Hắn liệt cả hai tay hai chân và bị câm. Hắn nằm ụ một chỗ, tất cả mọi việc đều phải trông cậy vào vợ và hai đứa con còn trong tuổi đi học. Thấy con dâu bận đi làm, hai cháu lo học, lão ngày ngày đi xe buýt tới trông nom con. Người con dâu khuyên can thế nào lão cũng không chịu. Lão biết rằng nếu phải thuê người để săn sóc  bệnh nhân thì con dâu lão không đủ khả năng tài chánh. Không có người giúp, con lão sẽ phải nằm một mình ở nhà.  Sau khi chồng gặp tai nạn, người vợ đã phải xin nghỉ không lương ngót nửa năm trời để săn sóc chồng. Bao nhiêu tiền để dành trong ngân hàng phải lấy ra tiêu hết. Vì vấn đề sinh sống của gia đình, bà ta không thể nghỉ thêm được nữa. Lão không giúp thì gia đình này sẽ tan nát trong một tương lai gần, hai đúa cháu của lão sẽ phải bỏ học. Thôi thì còn sống ngày nào lão sẽ dành hết cuộc đời này cho người con tàn tật của lão. May là lão rảnh rang và còn đủ sức khỏe. Hồi đầu, mỗi lần nhìn con nằm bất động, mắt mở trừng trừng , muốn nói mà không nên lời, lão không sao cầm được nước mắt. Lão phải chạy vội vào phòng tắm, đóng kín cửa lại, rồi la lên hai tiếng :"Trới ơi !" Nước mắt lão dàn dụa, ướt đẫm cả khuôn mặt nhăn nheo. Có lúc, cũng ở trong phòng tắm đóng kín cửa, lão nghẹn ngào nói :"Sao không cho tôi chết thay  thằng con tôi, để tôi sống thế này làm chi !" Ngày qua ngày, lão dần dần bình tĩnh lại. Rồi hai cha con bắt đầu tìm cách nói chuyện với nhau. Người con tuy câm, nhưng vẫn nghe hiểu lời cha nói. Hắn dùng mắt để diễn tả ý nghĩ của mình. Nếu chưa hiểu, lão sẽ hỏi lại. Chớp mắt hai cái liền là bằng lòng. Một cái là không. Lão thường kể cho con nghe những chuyện vui vui mà lão đã đọc trong báo hàng ngày. Nhờ vậy, nỗi khổ đau của lão giảm bớt phần nào.
Bỗng một hôm,người con có vẻ mặt khó khăn buồn bã, muốn nói với cha một điều mà chưa tìm ra cách phát biểu. Lão phải mất hơn một tuần mới hiểu được ý con. Hắn muốn chết !  Hắn muốn lão giúp hắn chết. Lão bàng hoàng trước ý muốn đó của con. Lão chợt nhớ tới một câu nói mà lão đã đọc được ở đâu đó từ lâu lắm rồi :"Muốn sống cho ra sống, ta phải tích cực làm việc và cũng tích cực hưởng thụ." Tình trạng của con lão bây giờ là tình trạng của một kẻ đã chết. Nằm liệt một chỗ, bất cứ việc gì cũng phải nhờ người khác làm hộ, có khác gì một xác chết. Giá hắn chết ngay trong tai nạn thì đỡ khổ cho gia đình. Sự hầu hạ đã làm mệt mỏi mọi người, rồi đi đến chán nản. Hắn muốn chấm dứt cái kiếp tàn tật, nửa sống nửa chết cũng là điều hợp lý. Nhưng hắn không thể tự làm lấy việc đó, muốn nhờ lão giúp. Không. Không thể nào lão giúp hắn được. Không một người cha nào nhẫn tâm có thể giết con, dù đứa con đó đã chết đến chín phần mười, nằm bất động một chỗ như một cái xác chưa chôn. Mỗi lần hắn nhìn lão bằng đôi mắt cầu khẩn, van lơn, lão lắc đầu với một vẻ rất cương quyết. Thấy cha quyết liệt từ chối, hắn lộ vẻ buồn bã, đôi mắt ngầu đỏ, đẫm ướt. Những lúc đó, lão bỗng thấy lòng mình trùng xuống.
Ba tháng nặng nề trôi qua kể từ ngày con lão ngỏ ý muốn chết. Hắn cũng thôi liên tục van nài lão giúp, chỉ thỉnh thoảng hắn mới nhắc đến. Nhưng một hôm, khác với thường lệ, lão bất ngờ đến thăm con vào một ngày cuối tuần. Lão nhận ra sự sa sút của gia đình con. Khi con trai lão còn khỏe mạnh, gia đình có hai lương nên có một cuộc sống sung túc. Hai đứa cháu gái của lão chỉ học hành và nhởn nhơ vui chơi, không phải lo nghĩ gì. Bây giờ nhà chỉ có một lương, mà là loại lương thấp. Sự sa sút tất nhiên phải tới. Con cháu lớn đã phải nghỉ học để đi làm toàn thời gian, còn con nhỏ vừa đi học vừa đi làm bán thời gian. Thì ra con dâu và hai cháu lão đã dấu lão về tình trạng sa sút của gia đình. Lão thầm tự trách sao lão không nghĩ ra điều đó từ trước. Lương của người con dâu không đủ trang trải mọi chi phí trong gia đình. Muốn giữ mức sống như cũ hoặc gần bằng cũ, đứa cháu lớn của lão phải bỏ học đi làm là chuyện phải xẩy ra.
Lão nghĩ đến việc tặng con dâu và hai cháu số tiền để dành nhỏ bé của lão. Thế là lão ra ngay ngân hàng rút hết số tiền mà lão có trong quỹ tiết kiệm. Nhưng con dâu lão và hai cháu cương quyết từ chối. Lão nói thế nào họ cũng không nhận. Cuối cùng, người con dâu đề nghị :"Hay Ba dùng số tiền này để thuê người trông nom nhà con cho Ba đỡ vất vả." Đến lượt lão phải từ chối, viện cớ lão muốn tự tay săn sóc người con bệnh hoạn, tàn tật. Lão chẳng hề thấy vất vả, mệt mỏi. Lão thật tình không đành tâm thấy cháu phải bỏ giở việc học. Tương lai của nó đang sáng sủa bỗng trở nên bấp bênh. Lão vẫn biết ở Mỹ này những người có chí không bao giờ phải vĩnh viễn bỏ học, lúc nào cũng có thể có cơ hội để trở lại trường, nhưng lão vẫn thấy xót xa khi thấy đứa cháu ruột của mình không được tiếp tục đi học.
Có một lúc vì thương hai cháu quá lão bỗng thấy thằng con tàn tật của lão là thừa trong gia đình này, thừa trong cái xã hội đang tích cực hoạt động. Nhưng lão phải xua đuổi ngay ý nghĩ đó đi.
Thế mà không hiểu sao người bệnh như đoán được ý nghĩ thầm kín đó của lão. Ngày đầu tuần, lão đến thì hắn lại năn nỉ lão giúp hắn được chết. Tia nhìn van xin, cầu khẩn của hắn xoáy vào lòng lão làm lão bỗng tê điếng toàn thân. Cái ý nghĩ thừa thãi lại đến với lão. Nhưng lão cố xua đuổi nó đi và lão tránh nhìn thẳng vào mắt con. Lão thầm nói với mình :"Con nào cũng là con, tàn tật hay bệnh hoạn cũng vẫn là con !" Thế rồi buổi chiều khi ngồi trên xe buýt để về nhà lão lại chợt tự hỏi :"Sống như vậy có đáng sống không ?" Lão không trả lời dược câu hỏi đó. Hay lão không dám trả lời ? 
Lão đã không trả lời trực tiếp mà trả lời gián tiếp bằng cách xin hẹn gặp bác sĩ đã chạy chữa cho con lão trong bệnh viện khi hắn vừa gặp tai nạn. Câu hỏi duy nhất lão muốn bác sĩ trả lời dứt khoát xem tình trạng của con lão có thể cải thiện không ? Sau khi xem lại hồ sơ bệnh lý cùng nhiều tấm phim chụp óc, bác sĩ  đáp :
"Nếu không có phép lạ nào, tình trạng của con ông chỉ có mỗi ngày một suy kém đi, khó mà khá hơn được."
Lưỡng lự một lúc khá lâu, lão hỏi :
"Kéo dài bao lâu thì…thì nó chết ?"
Bác sĩ lắc đầu :
"Khó mà biết rõ được. Năm bảy tháng, vài ba năm, có khi cả chục năm không chừng. Tôi đã thấy có người nằm như vậy hơn mười năm."
Lảo thở dài, rồi từ biệt vị thầy thuốc người Mỹ. Lão biết lão sẽ phải làm gì. Nhưng quả thật lão rất phân vân.
Rồi ngày tháng qua. Lão vẫn phân vân, không thể quyết định làm cái việc mà lão đã cho rằng phải làm. Trong khi đó, tình trạng sức khỏe của con lão trở nên tồi tệ hơn. Trước kia, mỗi khi muốn tiểu hay đại tiện, hắn có thể cho lão biết kịp thời để lão sửa soạn giúp hắn. Bây giờ, hắn cũng không biết mình bài tiết lúc nào. Sự giúp đỡ trở nên khó khăn, vất vả. Chỉ trong vòng một tuần, lão cảm thấy mệt mỏi vô cùng. Như biết tình trạng sức khỏe của cha, người con nhìn lão bằng đôi mắt ái ngại. Rồi hắn lại van xin lão giúp hắn chết. Trước tia nhìn cầu khẩn của con, lão ngoảnh mặt làm ngơ. Buổi chiều khi ngồi xe buýt để về nhà lão bỗng cảm thấy mệt rã rời. Lão biết rằng với tình trạng này lão không thể cầm cự lâu được nữa. Nếu lão chết trước con lão, hắn sẽ ra sao ?  Vợ con hắn sẽ ra sao ?  Bỗng lão quyết định hắn phải chết trước lão thì mới cứu được gia đình hắn khỏi bị xụp đổ thảm thương. Mà rồi khi lão chết lão mới yên lòng nhắm mắt.
Cuối tuần đó, lão đến một tiệm bán súng, ghi tên mua súng. Sau hai tuần chờ đợi để điều tra lý lịch, lão trở lại tiệm, người bán hàng cho biết lão đã được phép. Thật ra chỉ cần một tuần điều tra, lão đã trì hoãn thêm một tuần nữa. Lão chọn một khẩu súng nhỏ với một bì đạn sáu viên. Lần đầu tiên cầm khẩu súng trong tay, lão thấy ngài ngại. Lão vẫn nghĩ đời lão sẽ chẳng bao giờ làm quen với súng đạn, ai ngờ vào cuối đời lão lại có riêng một khẩu nhỏ.
Nhưng khẩu súng được nằm yên ở một nơi kín đáo trong nhà lão cả mấy tháng trời   Lão vẫn phân vân. Tuy nhiên, trong thời gian đó, lão đã bắt đầu sửa soạn, tính toán. Lão gói ghém số tiền  mà lão đã rút từ quỹ tiết kiệm gửi đến cho người con gái út ở một tiểu bang khác với lời dặn dò rất chi tiết. Những giấy tờ quan trọng lão cũng xếp lại thành một bọc, gửi cho người con trai thứ nhì ở tiểu bang bên cạnh. Lão cũng dẹp luôn mấy bàn thờ, đưa bát hương và ảnh những người đã khuất, gửi bà em họ cùng ở trong vùng với lão. Mấy viên thuốc ngủ mà bác sĩ đã cho lão khi tinh thần lão bị khủng hoảng sau tai nạn của người con, cũng đã được lão tìm ra. Lão không muốn con lão trông thấy lão để khẩu súng lên ngực hắn mà bóp cò. Thuốc ngủ sẽ làm hắn mê đi trước khi bị lão bắn. Có lẽ chỉ hai viên cũng đủ. Không, phải ba viên cho chắc và nhanh. Lão chỉ cần bắn một viên vào giữa tim hắn. Rồi lão sẽ gọi điện thoại cho cảnh sát báo tin lão đã giết con.
Dù lão đã tính toán, xếp đặt kỹ càng mà lúc thực hiện chương trình không phải là dễ. Tim lão hồi hộp đập liên hồi. Khi cho con uống thuốc ngủ thay vì thuốc bệnh hàng ngày, tay lão run bần bật. Thoáng trong một giây lão muốn thay đổi ý kiến, nhưng lão cố tự trấn an là thầm nhủ rằng lão đang cứu con lão khỏi cái kiếp sống thừa nhục nhã, rằng lão đang cứu  hai đứa cháu…Rồi khi hắn đã ngủ mê man, lão lấy súng ra, nhưng loay hoay mãi mới đưa được viên đạn lên nòng, một phần vì tay lão run quá, một phần vì đây là lần đầu lão xử dụng súng.
Rồi sau khi con lão đã chết, máu tuôn xối xả từ ngực hắn, lão hoảng sợ ném khẩu súng xuống đất. Lão ôm lấy mặt khóc nghẹn ngào. Lão chợt hối hận đã làm một việc quá liều lĩnh, táo bạo. Lão tự hỏi tại sao lão lại giết con ?  Lão như người mất hồn ngồi cạnh xác con lẩm bẩm nói :"Ba xin lỗi con. Trời ơi, ai xui tôi giết con tôi thế này ?  Tôi tỉnh hay mê ?" Cả tiếng đồng hồ sau lão mới chợt nhớ đến việc phải làm là gọi điện thoại cho cảnh sát.
                                                                                 X
                                                                      X X
Tiếng ồn ào chung quanh kéo lão trở về với hiện tại. Lão nhớ ra rằng lão đang ngồi trong tòa án, bên cạnh vị luật sư chỉ định. Luật sư nói nhỏ với lão :
"Tòa tạm nghỉ, ngày mai họp lại. Bồi thẩm đoàn đang thảo luận, chưa có quyết định gì. Tôi đã trình bày và trưng các bằng cớ là con ông không thể sống được. Bác sĩ chữa cho hắn cũng được mời ra làm chứng. Tôi tin ông có thể được giảm khinh."
Lão gật đầu tỏ ý cảm ơn, nhưng vẫn không nói một lời. Một viên cảnh sát ra lệnh cho lão đứng lên, rồi người ta còng cả hai tay lẫn hai chân lão. Vị luật sư  lại nói :
"Cứ an tâm, không đến nỗi nào đâu."
Lão lại chỉ gật đầu tỏ ý cảm ơn. Lão thầm công nhận ông ta là người có lương tâm. Khi cảnh sát kéo lão đi, lão vội nghiêng mình chào ông ta. Lão vừa bước chân ra khỏi cửa tòa án  bỗng có hai người con gái nhào về phía lão. Mấy viên cảnh sát đã kịp thời ngăn họ lại. Một người liền lên tiếng giải thích bằng tiếng Mỹ lưu loát :
"Chúng tôi là cháu nội, xin cho phép được gặp ông chúng tôi."
Mấy viên cảnh sát nhìn nhau, rồi một người nói :
"Lẹ lên. Chúng tôi không có thì giờ."
Cả hai cùng reo lên :"Cảm ơn !" rồi một người ôm lấy lão, nức nở :
"Ông…Cháu thương ông quá. Ông đã cứu ba cháu."
Người cháu gái thứ hai nắm lấy tay lão, nghẹn ngào :
"Ông đã cứu cả gia đình cháu."
Cái vẻ trơ trơ sắt đá của lão bỗng tan biến. Lão như  vừa cảm động vừa vui thích. Lão không định cười mà môi lão vẫn mở ra, méo xệch. Hai hàng nước mắt lăn trên đôi má hóp nhăn nheo. Ngay lúc đó, một viên cảnh sát kéo lão lên xe. Nhưng lão cũng kịp thoáng nghe tiếng người con dâu nói phía sau :
"Ba, con chưa thấy người cha nào hy sinh cho con cái nhiều như Ba."
                                                                                                            TQK

                                                                                                        02 - 2000

Thursday, June 6, 2013

                                                                 Khai bút
                                (Xuân Nhâm Thìn 2012)

                                        Năm cùng tháng tận buồn day dứt,
                                        Dĩ vãng sao còn mãi vấn vương ?
                                        Bạn cũ vài tên xa lác đác,
                                        Ðứa thì đau ốm, đứa tha phương.

                                        Giao thừa gió nổi ngoài song lạnh,
                                        Ngơ ngác năm canh chỉ một mình.
                                        Từng bước xuân về nghe uể oải,
                                        Tám mươi tuổi lẻ xuân còn xanh ?
                                                                                     

                                                                                       TQK

Saturday, June 1, 2013

THỊT CHÓ

                                            Tạ Quang Khôi

                                               (Viết phiếm)

    T
huở ấu thơ, tôi sống trong một ngôi làng trù phú ven sông Hồng. Bố Mẹ tôi ra tỉnh buôn bán, để anh chị em chúng tôi sống vớI môt bà cô ruột tạI quê nhà. Cô tôi không lấy chồng, dù hồI trẻ cô cũng có nhiều ngườI nhòm ngó, mốI lái. Mẹ tôi cho biết cô quyết tâm ở vậy để hầu hạ bà nộI tôi mù lòa từ ngày ông nộI tôi qua đời. Cuộc sống của anh chị em tôi trong ngôi làng nhỏ này thật yên bình và đầy tràn hạnh phúc. Chúng tôi cũng được đi học. Trường học chỉ là một gian nhỏ trong ngôi đình làng, thế mà cũng gồm đủ cả ba lớp : Năm (cours Enfantin), Tư (cours Préparatoire) và Ba (cours Élémentaire). Trường do một thầy hương sư phụ trách. Những ai học hết lớp ba và thi đỗ sơ học yếu lược, sẽ lên huyện để tiếp tục học. Anh và chị tôi không lên huyện mà lên thẳng tỉnh vớI bố mẹ tôi.
Còn lại một mình, tôi được cô thương và chiều hơn nên sống rất tự do và phóng túng. BuổI chiều, dù trời lạnh hay nóng, hết buổi học, tôi chạy ra đồng vui chơi vớI bọn trẻ chăn trâu. Chúng nó chính là bạn học cùng lớp với tôi, chẳng phải ai khác. Gia đình chúng đều có ruộng cày, nên nhà nào có ít nhất một con trâu. Bố Mẹ tôi cũng có ruộng, nhưng cho cấy rẽ nên không phảI nuôi trâu. Thú chơi của chúng tôi là đánh khăng, đánh đáo…Vào những ngày hè nóng nực, chúng tôi còn xuống sông bơi lội.  Chúng tôi vừa chơi đùa vừa canh chừng mấy con trâu để ngăn chúng không đến gần các ruộng lúa. CuốI cùng, chúng tôi thường mon men tớI mấy luống khoai, bớI trộm vài củ, đem xuống sông rửa sạch đất cát, rồI ăn ngấu ăn nghiến. Chúng tôi không phải là những kẻ đói khát, nhưng chỉ muốn nghịch ngợm, vui chơi thôi. Lấy trộm một vài củ khoai trong một làng giầu có như làng tôi không phải là một tội đáng trừng phạt. Dân làng tôi có một cuộc sống khá sung túc, không đến nỗi đói khổ như nhiều nơi khác trong vùng trung châu Bắc Việt. Vấn đề ăn uống của dân làng tôi không bị hạn chế. Họ có nhiều dịp để được ăn thịt thả cửa. Thịt lợn là món ăn thường xuyên của mọi người. Thịt gà thì hiếm hơn, dù nhà nào cũng có một chuồng gà ít nhất có 5, 7 con, mà cũng không phải vì “vườn rộng, rào thưa”. Tôi chưa thấy làng tôi giết trâu hay giết bò bao giờ. Cô tôi cho biết nhà nông coi trâu, bò là bạn nên không nỡ giết. Quả thật, trâu, bò giúp nhà nông rất nhiều. Người ta còn cho rằng mùi thịt bò gây gây, không ngon. Còn thịt trâu thì lạnh, không tốt cho sức khỏe con người.
Ngoài lợn gà, trâu bò, dân làng đôi khi cũng ăn thịt chó. Năm, bảy nhà trong xóm đánh đụng một con. Có lần bác ruột tôi cùng với mấy nhà trong xóm làm thịt một con chó, tôi được bác gọi tới. Cô tôi không thích thịt chó, nhưng lại không muốn mất lòng ông anh cả nên miễn cưỡng cho phép tôi sang nhà bác. Mâm cỗ chó có nhiều món quá, tôi chẳng biết món nào với món nào. Ðây là lần đầu tôi được dự bữa tiệc chó. Thấy tôi ngơ ngơ ngác ngác, bác tôi chỉ từng món để giải thích. Này, đây là chả nướng, đây là dồi, kia là bát nhựa mận, còn đĩa bún này để ăn với xáo. Cuối cùng bác khuyên :
“Muốn biết con chó ngon hay không ngon, chỉ nên ăn thịt luộc. Những món khác đều có pha chế mắm muối, giềng mẻ nên làm mất mùi vị chính.”
Hôm ấy, tôi ăn thử tất cả các món, món nào cũng thơm ngon hết. Còn là trẻ con, chưa biết thưởng thức của ngon vật lạ, nên cứ được ăn là tôi ăn ngấu nghiến. Tôi chẳng thấy sự khác biệt nào giữa các món. Ðối với tôi, thịt luộc nhạt nhẽo quá. Tôi thích nhất món xáo ăn với bún.
Bữa tiệc thịt chó của tôi chỉ kéo dài không đầy 15 phút. Trong khi đó, bác tôi và mấy ông hang xóm ngồi khề khà gần trọn một ngày. Các ông vừa ăn vừa uống rượu và cà kê dê ngỗng nói đủ mọi thứ chuyện. Rượu của dân làng tôi là thứ rượu làm lấy. Loại rượu này chính quyền thực dân Pháp gọi là rượu lậu. Người Pháp không cho dân mình làm rượu vì họ muốn giữ độc quyền sản xuất rượu cho các nhà tư bản Pháp. Ngoài Bắc, dân chúng chỉ được quyền uống rượu của nhà máy rượu Văn Ðiển, Nam Ðịnh và Gia Lâm. Rượu của những nhà máy này được bán chính thức, dân chúng quen gọi là “rượu ty”. Rượu mà dân làm lấy để uống hay bán đều bị coi là rượu lậu. Người làm rượu lậu, nếu bị bắt, có thể bị tù đến mọt gông. Nhưng dân làng tôi vẫn lén lút nấu rượu vì họ chê “rượu ty” không ngon, gắt quá, nồng quá. Nấu rượu tức là phạm pháp, dù không mua đi bán lại.
Một hôm, vào một ngày hè nóng nực, tôi đã thi đỗ bằng Sơ Học Yếu Lược và sửa soạn hết hè sẽ lên tỉnh với bố mẹ tôi để tiếp tục đi học, làng tôi bỗng xôn xao, hoảng hốt. Dân làng hớt hơ hớt hải báo cho nhau biết là Tây đoan đã ập tới đầu làng. Tây đoan về làng là tai họa sẽ xảy ra. Tôi đang chơi đùa với các bạn ờ ngoài đồng cũng bị đuổi về nhà. Gần trọn ngày hôm đó, lính đoan từ trên tỉnh về sục sạo từng nhà để tìm rượu lậu và đồ nấu rượu. Chúng vào cả nhà tôi tìm kiếm cả giờ, tất nhiên là chúng không tìm thấy gì.  Ðến chiều, khi mặt trời đã xế bóng, chúng ra về tay không. Tôi không hiểu người ta giấu rượu và đồ nấu rượu ở đâu mà lính đoan không tìm ra nổi. Khi cả bọn họ đã lên xe hơi, bỗng tên Tây đoan đầu xỏ phát giác ra rằng thiếu con chó tây của hắn. Thế là bọn lính lại phải bổ đi khắp nơi để tìm nháo tìm nhào. Nhưng cho đến khi mặt trời đã lặn, chúng cũng không tìm thấy con chó quý đâu. Chúng phải về tay không. Hôm sau, rồi cả tuấn sau, chúng lại cho người về tìm chó. Rồi chúng cũng phải bỏ cuộc vì không có một dấu vết nào để có thể tìm ra manh mối. Câu chuyện con chó mất tích dần dần cũng chìm vào quên lãng. Vào cuối hè, khi tôi sửa soạn từ biệt bà nội và cô tôi để lên tỉnh học, chuyện con chó mất tích bỗng lại được nhắc tới. Trước ngày lên đường, tôi phải sang chào bác tôi. Tôi tới nhà bác vào lúc bác đang có khách. Bác gái đưa tôi vào thẳng nhà ngang. Khi đi qua nhà khách, tôi nghe loáng thoáng mấy ông khách của bác tôi chê thịt chó tây không ngon, hơi béo và có mùi gây gây. Nghe chê như vậy, tôi đã nghi nghi, nhưng không dám hỏi han gì. Khi khách khứa về hết, bác tôi vào nhà trong gặp tôi và để dúi cho tôi mấy xu gọi là tiễn tôi đi học xa. Sau đó, tôi nghe bác nói chuyện với bác gái là mấy ông ở xóm dưới đã ăn thịt con chó tây của tên tây đoan. Khi chợt nhớ ra có tôi đang ở cạnh, bác không nói tiếp nữa, còn dặn tôi phải giữ kín chuyện này, tiết lộ ra là chết cả làng, chứ không phải chỉ mấy người bắt trộm chó và ăn thịt chó. Cho đến nay, khi viết lại những dòng này, tôi vẫn không hiểu dân làng tôi làm sao giấu được rượu mà họ vẫn nấu, giấu được cả đồ nghề nấu rượu nữa. Con chó tây cũng không phải là một con vật nhỏ bé, thế mà họ cũng giấu kín được, rồi lén lút ăn thịt nó.
Sau này, khi ra tỉnh học, tôi thấy dân tỉnh lỵ coi việc ăn thịt chó là bình thường, thậm chí có cả hiệu bán thịt chó. Mỗi lần đi qua, tôi thấy người ta treo đùi và dồi chó để mời gọi khách. Mẹ tôi tuy theo đạo Phật, nhưng thỉnh thoảng cũng mua thịt chó về cho bố tôi nhắm rượu. Bố tôi không có rượu lậu để uống nên thường sai tôi ra đầu phố mua rượu của ty, gọi là rượu ty, tức là rượu nhà nước sản xuất. Cụ thích nhất rượu Gia Lâm, đựng trong một chai nhỏ. Ở miền Bắc, đơn vị đo lường của rượu là “cút” (một cút rượu). Hình như chai rượu Gia Lâm là chai hai cút. Tôi không rõ một “cút” có bằng một “xị” của miền Nam không ? Mỗi lần rảnh rỗi ngồi uống rượu một mình, bố tôi chỉ uống hết nửa chai rượu Gia Lâm. Ðôi khi bố tôi cũng có bạn nhậu, đó là ông hang xóm. Ông này đặc biệt chỉ thích ăn thịt luộc và nậm chó. Tôi không hiểu nậm là cái gì nên một hôm hỏi thẳng ông. Thì ra nậm là cái vú của con chó cái. Ông khen nậm vừa dòn vừa béo ngậy. Nhưng nậm rất ít bán vì chỉ chó cái mới có.
Dân trong tỉnh tôi hồi đó không có một tiếng lóng nào để gọi thịt chó. Người ta cứ nói thẳng là “thịt chó”, như thịt lợn, thịt bò hay thịt gà... Sau này, trong vùng kháng chiến chống Pháp, lần đầu tiên tôi nghe nói “hạ cờ tây” thì không hiểu là chuyện gì, cứ tưởng là đem quân tấn công đồn Tây để hạ cờ lá cờ xanh trắng đỏ (thường gọi là cờ tam tài) của Tây đang bay phất phới trên cao. Mãi đến khi thấy các bạn trong đơn vị trói một con chó để cắt tiết, tôi mới hiểu rằng “hạ cờ tây” là hạ cầy tơ. Khi đã di cư vào Nam, người ta lại gọi thịt chó là “nai đồng quê” vì gần nhà thờ Ba Chuông, đường Trương Minh Giảng, có một tiệm bán thịt chó lấy tên là “Nai Ðồng Quê”. Gọi như vậy là có ý coi con chó giống như con nai, không ở trong rừng mà ở ngoài đồng ruộng. Ví như vậy, tôi cho là không đúng, vì thịt nai khác với thịt chó, mỗi loại thịt có một mùi vị riêng và cách nấu nướng cũng không giống nhau. Nai là loại ăn cỏ, lá cây, chó là loại ăn thịt. Chó ở Việt Nam còn ăn cả phân người nữa. Những người ghét ăn thịt chó cho rằng ăn thịt chó tức là ăn…phân người một cách gián tiếp. Nói như vậy là hoàn toàn sai lầm và phản khoa học. Ngày xưa, khi chưa có phân bón hóa học, ở Việt Nam, nhà nông cũng bón ruộng bằng phân người. Vậy, ăn cơm cũng là ăn phân một cách gián tiếp sao ?
Ngày xưa, vào đầu thế kỷ 20 có một ông tổng đốc một tỉnh sát Hà Nội, cũng là một tay nghiện thịt chó, đã nghĩ ra một cách rất sạch sẽ để “hạ cờ tây”, khỏi bị coi là ăn phân người một cách gián tiếp. Ông cho đầy tớ ra chợ tìm mua một con chó vào loại choai choai, đúng là “cờ tây”. Khi đem về dinh tổng đốc, con chó được “cách ly” với thế giới bên ngoài để khỏi ăn lầm phân người. Nó được “tẩm bổ” bằng cơm trắng và thịt nấu nướng rất sạch sẽ. Sau một tháng tẩm bổ, con chó mới bị cắt tiết. Không biết mùi vị thịt con chó được “ăn chay” có khác với thịt chó trong dân gian không ? Hay cũng phải có giềng mẻ mới đúng vị “cờ tây” ?
Nói đến chuyện ăn thịt chó, chắc nhiều người hâm mộ thể thao, nhất là bong đá, hẳn chưa quên chuyện tranh cãi giữa người Triều Tiên với cô đào chiếu bóng của Tây nổi tiếng khiêu gợi một thời, đó là nảng Brigitte Bardot. Mùa hè năm 2002, trong khi thế giới đang sôi nổi theo dõi các trận đá bóng quốc tế, Nàng BB, nhân danh là chủ tịch một hội bảo vệ súc vật của Tây, lên tiếng chê người Triều Tiên không văn minh vì mê “hạ cờ tây”. Người Triều Tiên bèn lên tiếng tự biện hộ rằng “hạ cờ tây” là một sắc thái của văn hóa Triều Tiên. Nàng BB liền trề môi nói :”Cái gì mà văn hóa ! Văn hóa là văn chương, chữ nghĩa, âm nhạc, đâu có liên quan gì đến việc đớp cầy tơ. Chó là giống vật có nghĩa, tinh khôn, nên đã được coi là bạn của loài người. Ai lại đi giết bạn để nhậu bao giờ !”
Nói như vậy là em BB cũng chưa hiểu rõ hai chữ văn hóa. Theo các nhà nghiên cứu văn học, văn hóa chính là lối sống hàng ngày của con người, với những thói quen, những tập tục có từ lâu đời. Vì thế, mỗi xã hội có một nền văn hóa riêng và văn hóa có thể thay đổi tùy thời, tùy từng khu vực, với mục đích làm cho con người sống thoải mái hơn, có nhiều hạnh phúc hơn. Vì thế, dân Triều Tiên nói rằng ăn thịt chó chính là một sắc thái của nền văn hóa Triều Tiên là trúng phóc.
Ngày xưa, người Tàu thường nói :”Khuyển mã chi tình.”, nghĩa là ngựa và chó đều có tình nghĩa với người nuôi nó. Ðã có những chuyện xưa kể lại rằng khi chủ chết, con chó hay con ngựa ra nghĩa địa nằm cạnh mộ của chủ rồi chết theo chủ. Nàng BB chê người Triều Tiên kém văn minh mới ăn thịt chó. Thế là em quên không sờ gáy của em rồi. Dân Pháp có thua gì dân Triều Tiên khi họ ăn thịt ngựa. Bít tết (steak) ngựa là món ăn được dân Pháp coi là ngon nhất và đắt tiền. Ăn thịt ngựa cũng có thể coi là một sắc thái riêng của nền văn hóa Pháp.
Sau ngày cộng sản chiếm miền Nam, dân Nam được biết thêm một món ăn khoái khẩu nữa của bộ đội Bắc Việt, đó là thịt mèo. Ðêm đêm họ đi lùng bắt mèo hoang về nấu cà ry. Họ cho biết cà ry mèo rất ngon vì thịt mèo giống thịt thỏ. Không biết sau này người Nam có ai bắt chước bộ đội cộng sản ăn thịt mèo không ? Trước năm 1975, ở trong Nam, hầu như rất ít người biết thưởng thức món ăn kỳ lạ này.
Riêng tôi, thịt mèo chưa bao giờ tôi nếm một miếng dù nhỏ tý tẹo, còn thịt chó tôi cũng “cai” luôn sau khi nhìn thấy con chó sắp bị cắt tiết khóc, nước mắt chảy dòng dòng. Một hôm, tôi được một ông bạn mời tới nhà ăn mừng con ông vừa đỗ tú tài toàn phần hạng tối ưu, có nhiều hy vọng được học bổng đi du học. Ông mời khá đông bạn bè, nhưng tôi là một khách đặc biệt vì đã có chút công giúp cho con ông được đỗ hạng cao. Vì thế, tôi đến nhà ông chơi từ sang sớm. Nhà ông ở vùng ngoại ô Saigon nên có vườn rộng, mát mẻ. Ông cũng là một nhà giáo như tôi, nhưng thuộc lớp đàn anh. Ðến nơi, tôi mới biết ông sẽ “thịt” một con chó để đãi khách. Con chó đã mua từ mấy hôm trước và sẽ bị cắt tiết vào buổi xế trưa. Chuyện giết chó để đãi khách là một chuyện thường xảy ra, không có gì đáng nói. Thế rồi, sau bữa cơm trưa, người ta nhộn nhịp sửa soạn giết chó. Tôi đã nhiều lần ăn thịt chó, nhưng chưa bao giờ được xem cắt tiết. Tôi đề nghị ông bạn đưa tôi ra “pháp trường”. Ông vui vẻ nhận lời ngay. Con chó bị trói cả bốn chân và bị treo ngược lên một cành cây ngoài vườn. Ðó là một con chó vàng. Theo những người sành thịt chó thì thịt chó vàng ngon vào hạng nhì, vì thế đã có câu :”Nhất mực, nhì vàng, tam khoang, tứ vện.” Cũng có nơi, người ta xếp hạng khác một chút :“Nhất vàng, nhì vện, tam khoang, tứ mực.” Tôi không biết cách xếp hạng nào đúng vì không phải là một tay sành cẩu nhục. Ngoài bốn loại vừa kể, tôi còn thấy chó lài, loại chó ta lai berger. Nó không vàng, không vện, không khoang và cũng không mực luôn. Thịt chó lài không biết có ngon không mà không thấy ai nhắc tới. Cạnh con chó vàng sắp bị cắt tiết, người ta đã để sẵn mấy tô lớn, chuẩn bị hứng máu chó. Tôi tò mò đến gần con vàng để nhìn rõ hơn. Nó cũng nhìn tôi và tôi chợt nhận ra hai hàng nước mắt của nó. Tôi thốt kêu  :”Con chó khóc, anh ạ.” Ông bạn cười :”Nó biết gì mà khóc với mếu. Mình treo ngược nó, làm cho cơ thể nó có một phản ứng gì đó, nên nước mắt chảy ra. Cũng như con cá sấu khi há mõm đớp mồi thì nước mắt chảy ra. Vì thế, người ta gọi những người khóc vờ, giả bộ thương kẻ khác là nước mắt cá sấu.” Tôi không nghĩ lời giải thích ấy là đúng vì tôi nhớ tới câu nói của người xưa ”Khuyển mã chi tình.” Bảo rằng nó không biết gì tại sao nó lại có tình với chủ ? Phải chăng con chó vàng này biết nó sắp chết ? Bản năng tự tồn của một sinh vật thúc đẩy nó có phản ứng tiêu cực là khóc vì đã bị trói cả bốn chân ?
Bữa thịt chó hôm ấy tôi không ăn một miếng nào, chỉ ngồi nói chuyện xuông với khách khứa cho vui. Ðó cũng là bữa cuối cùng trong đời tôi vì mỗi lần nghĩ đến thịt chó, tôi lại nhớ đến hai hàng nước mắt của con vàng.
                                                                                                      TQK

   


Monday, May 13, 2013


                                                     Tình đời

                                                            Thôi quên đi nhé, tình đời !

      Bạc đen thì cũng một cười cho qua.

                                                            Kiếp người như áng mây xa.

      Mưa tan, gió đuổi... lại là hư vô

                               

 

                                                  Thao thức

Xin cảm ơn đời cho ta cuộc sống,

Cảm ơn người, cay đắng lênh đênh.

Hờn tủi đó vẫn muôn vàn tha thiết,

Cúi đầu xin trọn kiếp mong manh.

 

Hồn bỏ ngỏ cho trăm chiều say đắm,

Đổi thay nhiều, giông bão nát con tim.

Tóc úa màu nương dâu bãi biển,

Thao thức hoài đêm trắng vẫn từng đêm.

                             

 

                                                                  Kiếp sống thừa

                                                            Lỡ tay đánh rớt bao ngày tháng,

Tuổi bỗng đi hoang nửa kiếp thừa.

Nặng trĩu hai vai tình cố quận,

Cuộc đời ngó lại :  chuỗi ngày mơ.

    

Dằn vặt tháng ngày cơm áo nặng,

Lưu vong tàn kiếp cũng là hư.

Nửa vòng trái đất thương và nhớ,

Mây trắng hồn ai vẫn lững lờ .

                                                                                   

 

                                                                   

 

 

                          .

                                                                        Thương nhớ

                                                            Nửa vòng trái đất xa xôi quá,

                                                            Thao thức đêm dài thương nhớ ai.

                                                            Mây trắng có bay về xứ mẹ ?

                                                            Xin mang thương nhớ đến cho Người.

 

                                                            Không khóc mà sao nước mắt dài ?

                                                            Trong mơ chỉ thấy một Người thôi !

                                                            Người đâu có biết rằng thương nhớ

                                                            Bóp nghẹn tim ta đến ngậm ngùi !

 

                                                            Hò hẹn trăm năm kiếp tái sinh,

                                                            Sao thần thoại hóa chuyện ân tình ?

                                                            Luân hồi ai chắc còn tao ngộ ?

                                                            Thương nhớ cho tàn kiếp mỏng manh.

                                                                       

 

 

 

Gian dối

                                                            Anh là kẻ ăn gian nói dối,

Suốt cả đời chưa nói thật một lần.

Chẳng hề thương nhưng sẵn sàng thề thốt :

Yêu tha thiết, yêu đắm đuối, vô ngần

 

Em nào hay nên vẫn yêu vẫn nhớ,

Tôn anh làm thần tượng của hồn em !

Ngây thơ quá, vẫn tưởng đời mật ngọt.

Khi đã yêu, yêu đến cạn máu trong tim !

 

Anh gan lì, chẳng bao giờ hối hận,

Dù biết em sẽ đau khổ ê chề.

Nhưng cuộc đời toàn những trò xảo trá,

Nên anh muốn em cứ tiếp tục hôn mê...

                                   

                                                                                                                       

 

                                                                         NỖI NHỚ

                                                            Giọt thu vang động trong hồn,

Gió thu nghe lạnh đã luồn vào song.

                                                            Một đời nửa kiếp lưu vong,

Ngẩn ngơ trái đất nửa vòng tay ôm..